Tháng 4 năm Nhâm Tý (1732), vị chúa đời thứ 7 của triều Nguyễn - Ninh Vương Nguyễn Phúc Trú đã chính thức thiết lập đơn vị hành chính mới là châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ, thuộc phủ Gia Định của nhà nước Đại Việt. Trải qua các thời kỳ lịch sử kể từ khi dinh Long Hồ được thành lập qua nhiều lần di dời lỵ sở, thay đổi địa giới hành chính và tên gọi. Đến năm 1832 danh xưng tỉnh Vĩnh Long chính thức ra đời với vai trò là đơn vị hành chính - một trong sáu tỉnh của Nam kỳ. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là 02 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, vùng đất này có 3 lần sáp nhập, chia cắt địa giới hành chính, với tên gọi khác nhau, như: tỉnh Vĩnh Trà, tỉnh Cửu Long và đến năm 1992 tỉnh Vĩnh Long được tái lập cho đến ngày nay.
Thuở khai sơ
Dinh Long Hồ hay Long Hồ dinh (theo chữ Hán chính thể) là một địa danh ở miền Nam vào thời chúa Nguyễn vào Nam khai hoang, lập nghiệp. Sau khi đặt phủ Gia Định, dựng dinh Trấn Biên và Phiên Trấn vào năm Mậu Dần (1698). Năm 1732 vị chúa thứ 7 của dòng họ Nguyễn là Ninh Vương - Nguyễn Phúc Trú (còn có tên gọi khác là Chú, Thụ, ở ngôi từ 1725 đến 1738) đã thành lập ở phía Nam của dinh Phiên Trấn một đơn vị hành chính mới là dinh Long Hồ. Sự thành lập dinh Long Hồ đã trở thành dấu mốc quan trọng đối với tiến trình lịch sử của vùng đất phía Nam sông Tiền nói chung và lịch sử tỉnh Vĩnh Long nói riêng. Có thể nói vùng đất Vĩnh Long cũng được khai sinh khi dinh Long Hồ được thành lập.
Từ Dinh Long Hồ đến trấn Vĩnh Long
Từ đó, dinh Long Hồ đã trở thành một dinh trấn quan trọng: buổi đầu, lỵ sở dinh Long Hồ đặt ở thôn An Bình Đông, huyện Kiến Đăng hay còn gọi là đình Cái Bè (lỵ sở châu Định Viễn cũng đặt tại đây, nay thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang). Các chức vụ đầu dinh có Lưu Thủ, Cai Bạ và Ký Lục trông coi việc quân sự, hành chính và thuế vụ cho cả một miền đất rộng lớn. Cùng với quá trình khai thác những vùng đất còn hoang vu của cư dân vùng Nam Bộ, chính quyền các chúa Nguyễn đã liên tục thực hiện các chính sách quản lý lãnh thổ với tư cách là chủ nhân vùng đất này. Từ thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn bắt đầu lập ra các đơn vị hành chính, sắp đặt quan cai trị, lập sổ sách quản lý dân đinh, ruộng đất và định ra các loại thuế.
Năm Mậu Ngọ (1738), chúa Nguyễn Phúc Khoát nối ngôi, thì năm sau (1739), Long Hồ dinh có thêm bốn huyện nữa do đô đốc Mạc Thiên Tứ đem dâng, đó là: Long Xuyên (vùng Cà Mau), Kiên Giang (vùng Rạch Giá), Trấn Giang (vùng Cần Thơ), Trấn Di (vùng phía Bắc tỉnh Bạc Liêu).
Sau năm 1744, chúa Nguyễn đem tất cả những miền đất phương Nam đã mở mang đặt thành ba dinh và một trấn là: Trấn Biên dinh (vùng Biên Hòa), Phiên Trấn dinh (vùng Gia Định), Long Hồ dinh (vùng Vĩnh Long) và Hà Tiên trấn (vùng Hà Tiên). Trừ Hà Tiên lúc đầu còn là một vùng đất phụ thuộc, mỗi dinh còn lại quản hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng hay xã.
Năm Bính Tý (1756), chúa Nguyễn cho sáp nhập hai vùng đất là Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là Tân An và Gò Công) vào châu Định Viễn, thuộc Long Hồ dinh do vua Chân Lạp là Nặc Nguyên dâng cho chúa Nguyễn để tạ tội.
Năm Đinh Sửu (1757), vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (vùng Châu Đốc, Sa Đéc bây giờ) để tạ ơn chúa Nguyễn, vì đã điều động tướng Trương Phúc Du lấy lại ngôi vị cho mình. Chúa Nguyễn lại sai đem đất ấy sáp nhập vào Long Hồ dinh.
Cũng trong năm này, theo đề nghị của ký lục dinh Long Hồ là Nguyễn Cư Trinh và thống suất Trương Phước Du, chúa Nguyễn thuận cho dời lỵ sở dinh Long Hồ và Châu Định Viễn về xứ Tầm Bào thuộc địa phận Long Hồ thôn (thuộc thành phố Vĩnh Long ngày nay). Cử Tống Phước Hiệp làm lưu thủ, đồng thời chúa Nguyễn còn cho lập ba đạo để hỗ trợ việc coi giữ đó là: Đông Khẩu (ở phía Nam Sa Đéc), Tân Châu (ở đầu Cù lao Giêng, không phải tại thị trấn Tân Châu ngày nay) và Châu Đốc. Đến lúc ấy, Long Hồ dinh là một dinh trấn quan trọng ở phía Nam xứ Đàng Trong và là trung tâm đầu não có trách nhiệm cai quản cả một vùng đất rộng lớn.
Tháng 11 (âm lịch) năm Kỷ Hợi (1779), chúa Nguyễn Phúc Ánh sau khi chiếm lại đất Gia Định từ tay Tây Sơn, đã duyệt lại bản đồ các dinh trong Gia Định, quyết định đổi tên dinh Long Hồ thành dinh Hoằng Trấn, lỵ sở đặt ở bãi Bà Lụa, thuộc huyện Tuân Nghĩa, phủ Lạc Hóa (nay là xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh), lãnh việc coi châu Định Viễn và ba tổng là Bình An, Bình Dương và Tân An.
Kể từ năm 1779, trên giấy tờ, địa danh Long Hồ dinh xem như không còn tồn tại nữa. Kể từ đó, Long Hồ dinh xưa lần lượt trải qua các tên gọi khác và địa phận cai quản của nó cũng bị thu hẹp dần:
- Năm 1779-1804: gọi là Hoằng Trấn dinh.
- Năm 1804-1808 gọi là Trấn Vĩnh dinh (hay Vĩnh Trấn dinh)
- Tháng giêng năm 1808 -1832 gọi là Vĩnh Thanh trấn.
- Đến năm Minh Mạng thứ mười ba (năm 1832), vua Minh Mạng chia Nam Kỳ thành lục tỉnh, trấn Vĩnh Thanh được đổi thành trấn Vĩnh Long, phân hạt gọi là tỉnh Vĩnh Long, cai quản 4 phủ, 8 huyện, 47 tổng, 408 xã, thôn. Tên gọi Vĩnh Long bắt đầu từ đây.
Vĩnh Long thời nhà Nguyễn
Về địa giới hành chính, sau nhiều lần chia cắt địa giới hành chính, đến trước khi thực dân Pháp xâm lược đánh chiếm Vĩnh Long lần thứ nhất (1862), tỉnh Vĩnh Long có 3 phủ và 8 huyện, gồm: phủ Định Viễn, có 2 huyện là Vĩnh Bình, Vĩnh Trị; phủ Hoằng Trị, có 4 huyện là Bảo Hựu, Bảo An, Tân Minh và Duy Minh; phủ Lạc Hóa, có 2 huyện là Tuân Nghĩa, Trà Vinh. Tên gọi Vĩnh Long tồn tại đến năm 1950.
Về kinh tế - văn hóa, trong thế kỷ XVIII, hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Long Hồ là sản xuất nông nghiệp và đánh bắt thủy sản. Ở nửa cuối thế kỷ XVIII, các dải đất giồng ven sông rạch, các cù lao thuộc địa bàn Long Hồ dinh trở thành vùng trù phú nhất đồng bằng sông Cửu Long. Sản lượng lúa thu hoạch được ở Long Hồ dinh không những đáp ứng đủ nhu cầu lương thực tại chỗ mà còn dư thừa cung cấp cho vùng Thuận - Quảng và bán cho cả thương nhân các nước trong khu vực.
Sự phát triển sản xuất nông nghiệp dẫn đến sự hình thành nhiều bến cảng trên các sông, rạch Cổ Chiên, Hàm Luông, Long Hồ, Mân Thít (Măng Thít), Trà Ôn, Trà Vinh... làm nơi buôn bán lúa gạo và các sản vật khác của địa phương như: trái cây (nhất là cau, xoài, dưa hấu) và thủy sản (nhất là tôm, cá, khô). Lỵ sở dinh Long Hồ dần dần trở thành trung tâm thương mại lớn của đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí quan trọng trên trục giao thông - thương mại Gia Định - Mỹ Tho - Hà Tiên.
Cùng với sản xuất nông nghiệp và hoạt động thương mại, sản xuất tiểu thủ công nghiệp cũng ngày càng khởi sắc ở đất Long Hồ dinh. Các ngành nghề thủ công xuất hiện sớm và mang tính phổ biến trong một bộ phận cư dân Long Hồ dinh là cưa xẻ gỗ (để đóng xuồng ghe và vật dụng bằng gỗ); dệt chiếu, dệt vải, dệt lụa; đan lát tre, trúc, mây; ép dầu phộng, ép trái mù u; ép đường mía, nấu rượu, nghề rèn... Mặt khác, trên nguồn nguyên liệu sẵn có từ sản phẩm nông nghiệp, hầu như thôn xóm nào cũng có các lò làm bánh tráng, bánh phồng, bún, tàu hủ ky, kẹo đậu phộng, kẹo mạch nha... Về sau, có thêm các nghề làm cối xay và xay xát lúa gạo, sản xuất gạch ngói.
Trên nền tảng kinh tế ổn định, người dân Long Hồ dinh đã tạo dựng cho mình đời sống văn hóa - tinh thần phong phú, giàu ý nghĩa và giá trị. Từ buổi đầu khai hoang lập ấp cho đến những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, sự giao thoa văn hóa Kinh - Khmer - Hoa trên đất Long Hồ - Vĩnh Trấn xưa và Vĩnh Long ngày nay kết tinh thành những tài sản văn hóa dân gian trên các lĩnh vực văn học, nghệ thuật... mang đậm bản sắc của nền văn minh sông nước, văn minh miệt vườn, thực sự là nét son truyền thống văn hóa độc đáo của cư dân miền đất trung tâm đồng bằng sông Cửu Long. Đó cũng chính là xuất phát điểm để Long Hồ - Vĩnh Trấn (sau này là tỉnh Vĩnh Long) dưới triều Nguyễn trở thành một trong những địa phương khắc ghi được dấu ấn văn hóa - giáo dục sâu sắc và đậm nét nhất ở Nam Kỳ.
Vĩnh Long thời chống pháp
Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng bất thành, chúng chuyển hướng tấn công vào Gia Định. Sau khi đánh chiếm xong các tỉnh miền Đông Nam kỳ, ngày 20 tháng 5 năm 1862, thực dân Pháp tấn công Vĩnh Long, Tổng đốc và binh lính Vĩnh Long ra sức chống trả quyết liệt nhưng trước sự uy hiếp dữ dội của quân đội Pháp đặc biệt là uy thế về vũ khí, Tổng đốc Trương Văn Uyển buộc phải rút quân, Vĩnh Long rơi vào tay thực dân Pháp.
Trước tình hình trên triều đình Huế đã ký với thực dân Pháp hòa ước Nhâm Tuất với những điều khoản hết sức nặng nề nhường ba tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp, đồng thời cũng theo hòa ước này Pháp sẽ trả lại Vĩnh Long cho triều đình Huế. Tuy được trao trả sau hòa ước Nhâm Tuất nhưng tinh thần chống Pháp của nhân dân Vĩnh Long dâng cao, tích cực tham gia hưởng ứng trong các cuộc khởi nghĩa trong vùng.
Không từ bỏ dã tâm chiếm trọn Nam kỳ và toàn cõi Việt Nam, ngày 20 tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp tấn công Vĩnh Long lần 2, trước thế giặc mạnh Kinh lược đại thần Phan Thanh Giản đã giao thành Vĩnh Long cho Pháp.
Ngay khi thực dân Pháp đánh chiếm Vĩnh Long, hoạt động chống thực dân Pháp của nhân dân Vĩnh Long nổ ra liên tục, hưởng ứng các cuộc khởi nghĩa trong vùng. Tiêu biểu như: cuộc khởi nghĩa do Phan Tôn, Phan Liêm (02 người con của Phan Thanh Giản) lãnh đạo, nổ ra ở vùng Hoằng Trị (Bến Tre ngày nay) vào tháng 8 năm 1867, lan rộng đến Định Tường, Vĩnh Long; cuộc khởi nghĩa của lãnh tụ Chương ở vùng Sóc Trăng vào tháng 8 năm 1867, lan rộng đến vùng Ba Thắc, Trà Ôn; cuộc khởi nghĩa Long Điền - Cầu Ngang, Trà Vinh vào tháng 8 năm 1867; cuộc khởi nghĩa Hương Điền - Trà Ôn do Phó soái An chỉ huy vào tháng 10 năm 1867; cuộc khởi nghĩa Ba Động vào tháng 3 năm 1868, do Tám Lý, Lê Tấn Kế, Đề đốc Triệu, Đốc binh Sang lãnh đạo; cuộc khởi nghĩa ở Rạch Giá vào tháng 6 năm 1868 do Nguyễn Trung Trực lãnh đạo; cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Long, An Giang vào mùa thu năm 1872 do Lê Công Thành, Lâm Lễ, Âu Dương Lân lãnh đạo. Đặc biệt, cuộc khởi nghĩa Vĩnh Trị (Vũng Liêm) vào năm 1872 do Đốc binh Lê Cẩn, Nguyễn Giao và Phó Mai lãnh đạo diễn ra tại Cầu Vông, giết chết Chánh tham biện Alix Salicetti.
Sang đầu thế kỷ XX, khi hàng loạt các phong trào yêu nước chống Pháp theo khuynh hướng phong kiến thất bại, vào trung tuần tháng giêng năm 1903, Phan Bội Châu bí mật đến Tam Bình, Trà Ôn để vận động đóng góp của cải vật chất và cho con em Vĩnh Long tham gia xuất dương cầu học. Phong trào Đông du được nhân dân Vĩnh Long tích cực hưởng ứng với hơn 30 du học sinh Vĩnh Long tham gia xuất dương sang Nhật du học[1] đồng thời là nơi ủng hộ rất nhiều tiền của cho phong trào Đông du.
Đầu năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên tỉnh Vĩnh Long được thành lập tại Ngã Tư Long Hồ do đồng chí Nguyễn Văn Thiệt lãnh đạo.
Tháng 7 năm 1929, Ban chấp hành Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên Nam Kỳ chuyển thành Chi bộ An Nam Cộng Sản Đảng. Tháng 9 năm 1929, chi bộ An Nam Cộng sản Đảng tỉnh Vĩnh Long cũng được thành lập và cử đồng chí Nguyễn Văn Nhung làm bí thư. Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng đã tích cực hoạt động và tổ chức thêm những Chi bộ ở các quận Tam Bình, Vũng Liêm, Châu Thành và Trà Ôn.
Tháng 3 năm 1930, đồng chí Châu Văn Liêm được cử về chỉ đạo tỉnh Vĩnh Long với nhiệm vụ xúc tiến các hoạt động và tổ chức hội nghị tại Ngã tư Long Hồ để chuyển chi bộ An Nam cộng sản Đảng Ngã tư Long Hồ thành chi bộ Đảng cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Vĩnh Long và các chi bộ An Nam cộng sản khác trong tỉnh cũng lần lượt được chuyển thành chi bộ Đảng cộng sản Việt Nam.
Trước sự lớn mạnh của các tổ chức Đảng, xứ ủy Nam Kỳ chỉ đạo cho Vĩnh Long thành lập Tỉnh ủy, tháng 2 năm 1931 Ban chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Vĩnh Long được thành lập tại nhà bà Lê Thị Giêng (Ba Chùa, thuộc xã Tường Lộc, huyện Tam Bình nay thuộc xã Nhơn Bình, huyện Trà Ôn). Xứ ủy phân công đồng chí Ngô Văn Chính làm Bí thư tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Văn Nhung làm Phó Bí thư,các đồng chí trong Ban chấp hành gồm: Nguyễn Văn Tiễn, Nguyễn Hữu Thế, Đặng Văn Quang.Từ đây Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long chính thức ra đời, đảm nhận vai trò và sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
Năm 1940, thực hiện chủ trương khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ: tiến hành khởi nghĩa trên khắp miền Nam, Tỉnh ủy Vĩnh Long họp bàn kế hoạch khởi nghĩa thật chu đáo, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng đồng chí, đánh giá tình hình công tác chuẩn bị về cơ sở Đảng, đồng thời xác định mục tiêu khởi nghĩa là: đánh chiếm các cơ sở quan trọng của địch, phá khám giải thoát tù chính trị…
Nhưng do kế hoạch khởi nghĩa chung của Nam Kỳ bị lộ trước giờ hành động nên cuộc khởi nghĩa ở Tỉnh lỵ gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, ban lãnh đạo khởi nghĩa tỉnh Vĩnh Long quyết định chuyển hướng tấn công các vùng ven tỉnh lỵ. Đêm 22 tháng 11 năm 1940, ta tiến đánh quận lỵ Châu Thành (Long Hồ), phá cầu Ông Me, cầu Long Hồ, đốt hết giấy tờ làng Long Hồ, cắt dây điện thoại, cưa cây làm chướng ngại vật ngăn địch từ Vĩnh Long xuống. Cùng lúc đó, tại Tam Bình, quân khởi nghĩa chia thành 3 mũi, đánh vào quận lỵ, chiếm trại lính, bao vây dinh quận, đánh chiếm đồn Trà Luộc, chiếm trụ sở làng Mỹ Thạnh Trung, đánh đồn Cái Ngang, phá cầu Cái Sơn, Bằng Tăng, Ba Kè, cắt đường dây điện thoại... thu 6 súng và làm chủ thị trấn suốt 17 giờ. Tại quận Vũng Liêm, quân khởi nghĩa, đánh chiếm dinh quận vào lúc 24 giờ đêm 22 tháng 11 năm 1940, phá trạm bưu điện, trại lính, thu 5 súng, thiêu hủy hồ sơ, làm chủ quận lỵ 8 giờ, treo cờ đỏ sao vàng trên nóc dinh quận, đánh chiếm đồn Trung Ngãi, ngăn chặn địch từ Trà Vinh lên, đánh phà Nước Xoáy, ngăn địch từ Vĩnh Long xuống cứu viện. Đêm 23 tháng 11 năm 1940, lực lượng đánh quận Châu Thành tiếp tục đánh chiếm nhà việc Chánh Hội (Cái Nhum), thiêu hủy toàn bộ sổ sách, súng lửa, phá hủy hai cầu sắt…
Tuy chưa giành được thắng lợi trọn vẹn, chưa thực hiện được mục tiêu thành lập chính quyền công - nông - binh nhưng Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ tại tỉnh Vĩnh Long là một trong số rất ít cuộc khởi nghĩa thu được kết quả trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tỉnh nhà, để lại những bài học rất có giá trị cho tiến trình của lịch sử sau này.
Phát xít Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện, mở ra cơ hội Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, Xứ ủy Nam Kỳ sẽ lãnh đạo đồng loạt khởi nghĩa trên toàn miền Nam vào ngày 25 tháng 8. Để chuẩn bị khởi nghĩa, ngày 22 tháng 8 năm 1945, Thường vụ Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Vĩnh Long họp tại Tam Bình bàn chủ trương, kế hoạch, thành lập Ủy ban Khởi nghĩa, quyết định lấy quận Tam Bình làm trọng điểm. Ngày 23 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Việt Minh ra lời kêu gọi toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa, nhân dân làng Vĩnh Xuân, Trà Côn, Tích Thiện, Thuận Thới, Hữu Thành (Trà Ôn), nổi dậy giành chính quyền, bộ máy cai trị ở đây tan rã nhanh chóng, chính quyền về tay nhân dân.
Trưa ngày 24 tháng 8 năm 1945, chỉ thị về tổng khởi nghĩa chính thức của Xứ ủy đã về đến Vĩnh Long. Tinh thần chỉ thị đã được truyền đi đến các địa phương trong tỉnh. Chiều cùng ngày, Chi bộ Đặc biệt do đồng chí Nguyễn Văn Thiệt làm bí thư đã tổ chức họp khẩn cấp và đề ra kế hoạch khởi nghĩa tại tỉnh lỵ.
Lúc 7 giờ sáng ngày 25 tháng 8 năm 1945, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra tại tỉnh lỵ Vĩnh Long. Hàng nghìn quần chúng và Thanh niên tiền phong có vũ trang, cờ đỏ sao vàng, cờ búa liềm và cờ vàng sao đỏ với khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Việt Minh muôn năm”. Đoàn biểu tình dừng lại tại Nhà việc Long Châu (trụ sở quận Châu Thành), Ủy ban Khởi nghĩa ra lời hiệu triệu và công bố các chính sách của Mặt trận Việt Minh. trước khí thế cách mạng của quần chúng, Tỉnh trưởng Vĩnh Long phải đầu hàng vào lúc 10 giờ trưa ngày 25 tháng 8 năm 1945.
Sáng ngày 28 tháng 8 năm 1945, việc giành chính quyền trong toàn tỉnh Vĩnh Long hoàn thành, Ủy ban Khởi nghĩa đã tổ chức cuộc mít tinh lớn tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ, lập chính quyền cách mạng của nhân dân.
Trải qua 15 năm ra đời và lãnh đạo Nhân dân tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long đã được trui rèn và ngày càng dày dạn kinh nghiệm, lãnh đạo Nhân dân tỉnh Vĩnh Long cùng Nhân dân cả nước làm nên cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công.
Ngày 29/10/1945, Pháp nổ súng tái chiếm Vĩnh Long lần 3, ta tổ chức đánh trả quyết liệt, tiêu biểu là trận chiến đấu tại ngã tư Long Hồ. Tuy nhiên do chênh lệch quá lớn về lực lượng và vũ khí, Vĩnh Long rơi vào tay thực dân Pháp sau hơn 01 tháng chiến đấu.
Thực hiện lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, dưới sự chỉ đạo của Khu ủy Khu 9, Đảng bộ Vĩnh Long vừa xây dựng vừa đẩy mạnh kháng chiến, đồng thời thực hiện chỉ thị về thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Vĩnh Long đã phát động toàn quân, toàn dân đẩy mạnh phong trào thi đua, xây dựng vùng độc lập phát triển rộng, mạnh.
Quán triệt Hội nghị quân sự và Hội nghị cán bộ đảng toàn xứ Nam bộ, tháng 9 năm 1949, Đảng bộ Vĩnh Long tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm là: gấp rút chỉnh đốn lại bộ máy chỉ huy quân sự các cấp; xây dựng ba thứ quân gồm chủ lực, địa phương quân và dân quân du kích; rèn cán chỉnh quân; tổ chức lại bộ máy quân giới, gia tăng công tác chính trị, địch ngụy vận; xây dựng căn cứ hậu phương. Ta chủ động mở nhiều chiến dịch nhằm tiêu hao sinh lực, phá sự chiếm đóng, bình định của địch, giữ vững vùng độc lập của ta tiêu biểu là chiến dịch Cầu Kè diễn ra từ ngày 7 đến ngày 30/12/1949. Ta huy động gần 13.000 lượt dân công phục vụ, đã tiêu diệt 17 đồn, bắn chìm 2 tàu, diệt trên 500 tên địch, bắt sống 200 tên, thu 300 súng các loại, quét sạch hệ thống lô cốt, tháp canh, giải phóng cho trên 100.000 dân trong vùng, thực hiện tốt chính sách tù binh, hàng binh đối với 200 lính Âu - Phi.
Sau chiến dịch này bộ đội địa phương chiến đấu và trưởng thành nhanh chóng, ta mở thêm các chiến dịch ở Trà Vinh, Sa Đéc, Cầu Ngang… điều đó đã chứng tỏ thế và lực của ta trong tương quan lực lượng với quân Pháp ngày càng lớn mạnh. Mặc dù bị căng kéo bởi chiến trường phía Bắc, nhưng trong đông xuân 1953-1954, trên chiến trường Vĩnh Trà, địch vẫn còn rất mạnh. Chúng vẫn thực hiện kế hoạch chiếm đóng, những cuộc hành quân lớn vẫn liên tiếp diễn ra. Trong tháng 6/1953, địch giao quyền chỉ huy quân sự cho tay sai, giao chính quyền ở Vĩnh Trà cho Chính phủ Bảo Đại và tổ chức bầu cử Hội đồng lương thay cho Hội tề và Hội đồng hàng tỉnh.
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, Trung ương Cục và Khu ủy, Tỉnh ủy Vĩnh Trà quán triệt và triển khai “thực hiện công tác trung tâm địch ngụy vận”, phát động Nhân dân du kích chiến tranh trong thời kỳ mới.
Nhằm thực hiện có hiệu quả sự chỉ đạo của Trung ương, chớp thời cơ địch đang thất bại ở chiến trường phía Bắc, ngày 26/10/1953, Tỉnh ủy đề ra Chỉ thị về việc xúc tiến công tác địch ngụy vận đi đôi với tác chiến quân sự làm suy yếu địch toàn diện, tạo điều kiện và hưởng ứng Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Nội dung chỉ thị nhấn mạnh: “Vận động chính trị là chính nhưng cũng phải biết kết hợp với quân sự, hướng dẫn ngụy binh làm nội ứng”.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, Tỉnh ủy giao Tỉnh đội, các ban ngành xây dựng kế hoạch triển khai nhanh chóng và có hiệu quả góp phần vào thắng lợi chung. Tập trung đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền trong vùng có đạo Hòa Hảo ở Cái Vồn, tranh thủ, tạo thuận lợi, cô lập tay sai, tề điệp, phân hóa hàng ngũ địch, nắm lấy quần chúng.
Trong đông xuân 1953-1954, quân dân Vĩnh Trà đã đánh 149 trận, phá hoại 15 vụ lớn, loại ra khỏi vòng chiến đấu 3.754 tên địch, trong đó tiêu diệt 330 tên, bị thương 219 tên, rã hàng 331 tên, rã ngũ 2.874 tên; giải phóng cho 1.575 thanh niên bị bắt lính, diệt 42 đồn bốt, bức rút 201 đồn, phá hủy 1 cầu, 2 chiếc phà, 1 kho xăng và 6.000 lít dầu mazut, thu 331 súng, 50.000 viên đạn, 1.500 lựu đạn. 29 xã bị địch tạm chiếm đã trở thành căn cứ du kích, hàng chục ngàn dân được giải phóng.
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt. Thực dân Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị Giơ-ne-vơ. Đảng bộ và Nhân dân Vĩnh Trà đã góp phần làm nên chiến thắng vang dội đó, ghi vào lịch sử tỉnh nhà như một trang chói lọi của thế kỷ XX.
Trải qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dù tên gọi có khác nhau nhưng Đảng bộ Vĩnh Long (1945-1950) hay Đảng bộ Vĩnh Trà (1951-1954) đều có sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương, của Xứ ủy, của Trung ương Cục miền Nam, của Khu ủy, Liên Tỉnh ủy. Tính nhất quán đó tạo ra sức mạnh thống nhất giúp Đảng bộ vượt qua những thời kỳ cam go của cách mạng.
Vĩnh Long thời chống Mỹ
Sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết ta có điều kiện pháp lí để lập lại hòa bình và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, Mỹ đã nhanh chóng thay Pháp ở miền Nam Việt Nam và lập chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, ra sức trả thù, bắt bớ những cán bộ, chiến sĩ của ta từng tham gia kháng chiến chống Pháp.
Năm 1955 Quân ngụy tổ chức tấn công lực lượng Hòa Hảo ở Cái Vồn - Bình Minh, lực lượng Hòa Hảo bị tan rã, một số đầu hàng giặc, một số chạy vào vùng kháng chiến cũ. Nắm thời cơ, Tỉnh ủy chủ trương xây dựng lực lượng giáo phái chống Mỹ - Diệm. Ta đưa một số cán bộ làm nồng cốt cùng lực lượng Hòa Hảo tiến bộ thành lập Liên minh giáo phái chống Mỹ Diệm. Sau khi tỉnh Vĩnh Long- Sa Đéc hợp nhất lấy tên tỉnh Vĩnh Long, tháng 8/1957 thành lập Tiểu đoàn Lý Thường Kiệt là lực lượng vũ trang tuyên truyền của Đảng, tuy vẫn mang danh nghĩa liên quân giáo phái chống Mỹ- Diệm. Tiểu đoàn Lý Thường Kiệt hoạt động trong điều kiện chưa có chủ trương hoạt động vũ trang của Đảng, đã kiên trì công tác vận động quần chúng, gây dựng bảo vệ cơ sở, chống địch “ Tố cộng, diệt cộng” trên địa bàn.
Tháng 7 năm 1959, Diệm lập tòa án quân sự đặc biệt, lê máy chém đi khắp miền Nam và về Vĩnh Long, hòng uy hiếp tinh thần của Nhân dân. Chúng giết hại bất kỳ ai theo cách mạng với phương châm “thà giết nhằm hơn thả nhằm” đã gây ra sự câm phẩn cao độ trong cán bộ đảng viên và đông đảo các tầng lớp Nhân dân. Cuộc đấu tranh chống Luật 10/59 được sự hướng dẫn kịp thời của trên, Đảng bộ Vĩnh Long đã chỉ thị cho các cấp ủy Đảng cần tiếp tục đẩy mạnh phong trào cách mạng, đẩy mạnh diệt ác trừ gian, phá kìm. Quần chúng và bộ đội Lý Thường Kiệt đã diệt một số tên chỉ điểm ác ôn của địch làm cho bọn ngụy quân, ngụy quyền cực kỳ hoang mang lo sợ… tạo đà cho phong trào diệt ác, phá kìm trên địa bàn tỉnh.
Tháng 8 năm 1960, Tỉnh ủy Vĩnh Long nhận được Nghị quyết của Khu ủy về Đồng Khởi. Tỉnh ủy mở hội nghị tại Tân Dương (Sa Đéc), thống nhất từ ngày 14/9/1960 sẽ đồng khởi trong toàn tỉnh, lấy trọng điểm là huyện Châu Thành-Sa Đéc (lúc bấy giờ thuộc Vĩnh Long) và các xã vùng chữ V (Hòa Tân, An Khánh, Phú Long, Mỹ Thuận) làm điểm đột phá. Đến ngày 14/9/1960, phong trào Đồng Khởi bùng lên trong toàn tỉnh. Quần chúng nổi dậy với đủ loại vũ khí, gậy gộc, dao mác, súng tự tạo… kéo đi bao vây các đồn bót, truy lùng ác ôn, địa chủ. Bọn lính đồn, tề xã và những tên ngoan cố trốn vào trong đồn cố thủ. Trước sức mạnh của cuộc nổi dậy đấu tranh như nước vỡ bờ của các tầng lớp Nhân dân, nhiều địa bàn xã, ấp ở các huyện Sa Đéc, Châu Thành, Tam Bình, Chợ Lách (Cái Nhum), Vũng Liêm… được giải phóng, Nhân dân vùng lên giải tán tề ấp làm chủ tình hình.
Phong trào Đồng Khởi 1960 ở Vĩnh Long đánh dấu một bước nhảy vọt của cách mạng miền Nam nói chung, của Vĩnh Long nói riêng, từ chỗ củng cố, xây dựng lực lượng chuyển sang tiến công đánh thắng chiến lược “Tố cộng diệt cộng” làm thất bại cuộc chiến tranh đơn phương của Mỹ-Diệm, đưa cuộc cách mạng của ta bước sang giai đoạn đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang song song dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam.
Giữa năm 1961 Mỹ - Ngụy thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặt biệt” với kế hoạch Bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, địch càn quét, bình định, lập ấp chiến lược khắp nơi. Các lực lượng vũ trang tỉnh Vĩnh Long đã cùng Nhân dân chống địch bình định và đẩy mạnh phá ấp chiến lược. Địch đưa máy bay, tàu chiến, pháo binh, xe bọc thép, yểm trợ bộ binh dùng pháo bom đánh phá ác liệt. Đồng thời, đưa sư đoàn bộ binh số 9 từ Bình Định vào đứng chân Vĩnh - Sa - Trà, ở cấp tiểu khu chúng tăng cường thành lập lực lượng bảo an. Đến năm 1965 địch đã có 2 liên đội (tương đương 2 tiểu đoàn) và nhiều đại đội độc lập .
Tỉnh ta phải đối phó với 2 tỉnh, 2 tiểu khu quân sự của địch. Các lực lượng vũ trang tỉnh ta gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn vũ khí trang bị, thiếu nguồn bổ sung. Vượt qua khó khăn, các lực lượng vũ trang trong tỉnh đã kiên cường chiến đấu làm “đòn xeo” cho phong trào quần chúng phá ấp chiến lược. Nhiều trận đánh tốt với chiến thắng vang dội như chống càn ở Bà Khạo, Lung Bồn (Châu Thành), chống càn ở Xẻo Bứa (Tam Bình), chống càn ở Kinh Củ, Phong Hoà (Bình Minh) của đại đội cơ động tỉnh, một đêm gỡ 3 đồn ở Bình Minh, các cao điểm phá ấp chiến lược được liên tục tổ chức… Cuối năm 1964 ta cơ bản đã phá banh các ấp chiến lược do địch xây dựng, đánh bại quốc sách ấp chiến lược góp phần làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặt biệt” của Mỹ Ngụy.
Giữa năm 1965, Mỹ chuyển sang thực hiện Chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ ồ ạt vào miền Nam tổ chức các chiến dịch phản công với hai gọng kềm “tìm diệt và bình định”. Ở Vĩnh Long, địch lấy bình định làm chính. Đồng thời đẩy mạnh hành quân tiêu diệt với công thức bộ binh ngụy, hoả lực Mỹ, bằng các thủ đoạn chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận và hạm đội nhỏ trên sông.
Các lực lượng vũ trang trong tỉnh được kiện toàn phát triển cả về bộ binh và các binh chủng: đặc công, công binh, pháo binh, thông tin. Quân khu bổ sung cho một số trang bị hoả lực tương đối mạnh. Tỉnh uỷ, Tỉnh đội lãnh đạo các đơn vị thực hiện phương châm “Tập trung, phân tán linh hoạt”, địa bàn tác chiến là “Đứng vững vùng ven, tấn công vùng kềm, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng”.
Ta đã tổ chức các trận tập kích bằng hỏa lực và sân bay Vĩnh Long diệt nhiều máy bay, phương tiện chiến tranh của địch; đánh mạnh vào vùng kềm, hút địch ra vùng ven rồi tổ chức tập kích diệt gọn 01 đại đội chủ lực ở Tân Nhơn (Tân Hạnh); diệt một đại đội chủ lực khác ở Dựa Tro (An Đức); đánh thiết xa vận ở Bình Thạnh Trung (Lấp Vò); chống càn đánh bại chiến thuật trực thăng vận ở Phú Quới; tập kích diệt một đại đội chủ lực địch ở lò gạch xã Tân Xuân; nhiều lần chống càn bẽ gãy các cuộc càn quét tìm diệt qui mô lớn của địch. Bộ đội địa phương các huyện vừa độc lập chiến đấu, vừa phối hợp lực lượng tỉnh và lực lượng Quân khu chiến đấu chống càn quét, diệt đồn bót mở lõm, mở vùng: Vũng Liêm đánh diệt tề xã Giồng Ké; Bình Minh đánh đồn Trà Kiết, bẽ gãy cuộc càn lớn của địch vào Tầm Vu. Du kích nhiều xã chiến đấu tốt, bắn rơi máy nay trực thăng của Mỹ.
Chỉ tính riêng năm 1965, lực lượng vũ trang toàn tỉnh đã đánh 325 trận loại khỏi vòng chiến đấu 5.404 tên, diệt, bức hàng, bức rút 37 đồn bót, bắn rơi 11 máy bay, hư cháy 31 xe quân sự, 11 tàu, thu 370 súng các loại.
Quân và dân Vĩnh Long đã tự lực, tự cường, tiến hành chiến tranh nhân dân dùng 3 mũi giáp công chống địch bình định lập ấp chiến lược, bảo vệ vùng nông thôn giải phóng và đã giành thắng lợi to lớn, toàn diện, phá vỡ hệ thống kìm kẹp của địch ở nông thôn, mở rộng vùng giải phóng, góp phần phá sản chiến lược, chiến tranh đặc biệt của Mỹ-Ngụy.
Trước tình hình quân Mỹ ào ạt đưa quân vào miền Nam để cứu nguy cho chính quyền Sài Gòn đang trên đà sụp đổ. Ở Vĩnh Long chúng đã tập trung lực lượng thực hiện chiến lược bình định và tìm diệt, chúng đã thực hiện nhiều cuộc càn quét, bắn phá ác liệt vào căn cứ cách mạng của ta.
Từ năm 1965-1967, mặc dù địch đánh phá ác liệt, quân dân Vĩnh Long đã thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy “vừa chiến đấu, vừa sản xuất” vừa duy trì phong trào cách mạng, đóng góp bảo đảm lương thực phục vụ cho cách mạng, củng cố lực lượng chuẩn bị cho tổng tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968.
Đúng 01 giờ 30 phút ngày 30/1/1968 (âm lịch), súng lệnh phát ra từ sân bay Vĩnh Long, các mũi tiến quân của ta đồng loạt tấn công vào các mục tiêu đã định.
Các lực lượng vũ trang trong tỉnh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiêu diệt trên 60 máy bay, chiếm lĩnh sân bay, đánh quân Mỹ vào giải toả cả bằng đường bộ và đường sông, bắn chìm 4 tàu Mỹ; tấn công tiêu hao địch ở khu phố mới, căn cứ giang thuyền; đánh thiệt hai nặng chi khu Đức Tôn; góp phần cùng lực lượng Quân khu làm chủ thị xã Vĩnh Long trong 6 ngày đêm liền, cắt đứt Quốc lộ 4 (nay là Quốc lộ 1A) trong 23 ngày đêm và diệt hàng trăm tên địch.
Cao điểm hai ta tiếp tục tấn công các mục tiêu ở nội ô, tiêu diệt nhiều sinh lực địch trụ ở vùng ven, đánh địch phản kích, các lực lượng vũ trang huyện, xã đã vươn lên giải phóng một vùng nông thôn rộng lớn liên hoàn.
Tổng kết 2 cao điểm đợt I (tháng 2,3,4/1968) các lực lượng vũ trang đã đánh 395 trận loại ngoài vòng chiến đấu 9.306 tên, thu 440 súng các loại, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch.
Cùng với cả nước, cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã buộc Mỹ phải thay đổi chiến thuật chiến lược. Mỹ tuyên bố xuống thang chiến tranh, từng bước phi Mỹ hoá cuộc chiến ở Việt Nam và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris.
Đầu năm 1969 Mỹ chính thức thực hiện Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, ở Vĩnh Long chúng lấy mục tiêu bình định, kiểm soát dân là trọng tâm. Lấy vùng chữ V, chữ Y (vùng giáp 4 huyện: Châu Thành, Sa Đéc, Tam Bình, Bình Minh) làm trọng điểm. Địch hành quân càn quét bắn phá dữ dội, đóng đồn bót dày đặc (tháng 4/1970, địch có 530, đến cuối năm 1970 là 630 đồn bót, hậu cứ).
Các lực lượng vũ trang trong tỉnh liên tục tác chiến đánh địch chống bình định, gom dân, tát dân. Khắc phục nhiều khó khăn thiếu thốn, toàn tỉnh chỉ còn 1 tiểu đoàn bộ binh và các đại đội binh chủng, quân số mỗi đại đội chỉ hơn 10 tay súng. Lực lượng ta đã kiên cường bám trụ, ngăn chặn đánh trả các cuộc hành quân càn quét của địch, thọc sâu vùng kềm đánh diệt căn cứ bảo an 273 ở Bình Minh, tổ chức đánh nhỏ, đánh lẻ tiêu hao sinh lực địch. Năm 1970 các lực lượng vũ trang đã đánh 1.239 trận, 853 lần pháo, xạ kích đồn bót; loại khỏi vòng chiến đấu 8.471 tên địch.
Trước thực trạng địch bình định ác liệt, đồn bót dày đặc trên địa bàn, thực hiện Nghị quyết chống bình định của Khu uỷ và chỉ đạo của Tỉnh uỷ, các lực lượng vũ trang trong tỉnh đã liên tiếp tổ chức nhiều hoạt động, làm đòn xeo cho phong trào quần chúng phá kềm giành quyền làm chủ xóm ấp. Tổ chức vũ trang tuyên truyền gầy dựng cơ sở đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh. Đến cuối năm 1971 ta đã chuyển được thế mạnh ở nhiều khu vực, các lực lượng 3 mũi đã bao vây nhiều đồn địch làm chủ được nhiều khu vực.
Mùa hè 1972, phối hợp chiến trường chung, Quân khu đưa lực lượng tiến công diệt yếu khu Thầy Phó (Hựu Thành - Trà Ôn); lực lượng tỉnh đánh thiệt hại nặng chi khu Bình Minh; lực lượng các huyện, xã vươn lên lấy đồn giải phóng ấp, giải phóng dân. Hoạt động kết hợp hai chân ba mũi phát triển mạnh, trẻ em, phụ nữ cũng lấy được đồn. Đến cuối năm 1972 tỉnh thành lập lại tiểu đoàn 2 đứng chân hoạt động vùng Nam - Bắc sông Mang Thít, tỉnh liên tiếp mở các cao điểm hoạt động. Ta đã giải phóng được 26 ấp. Địch ra sức tái chiếm đóng đồn, ta còn giữ được 14 ấp giải phóng và nhiều ấp tuy địch có đồn nhưng bị bao bó trong đồn, binh lính địch không bung ra được, ta vẫn làm chủ tình hình ngày đêm.
Ngày 27/01/1973 hiệp định Paris về lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết. Nhưng Ngụy quyền vẫn ra sức phá hoại không thực thi các điều khoản bất lợi cho chúng, chúng tổ chức hành quân tràn ngập lãnh thổ, phá thế “da beo” đang có trên chiến trường toàn tỉnh. Thực hiện chủ trương của Khu uỷ, ta đánh trả địch vi phạm hiệp định, kết hợp 3 mũi đấu tranh giữ vững thành quả cách mạng và đưa phong tào tiến lên. Ta bao vây cô lập đồn bót, chống địch hành quân can viện, chống địch phá địa hình.
Mùa khô 1973-1974, địch ở Vĩnh Long có 14 tiểu đoàn, ở Sa Đéc có 9 tiểu đoàn bảo an và các đơn vị binh chủng khác. Nhưng địch bị động chiến trường phải phân tán đối phó khắp nơi trong tỉnh và cả ngoài tỉnh. Ta chủ động đánh bại kế họach mùa khô của địch, giành đất giữ đất, giành dân, giữ dân, giữ lúa. Tổ chức các cao điểm liên tục dùng 3 mũi tấn công địch, vừa có trọng tâm trọng điểm, vừa có diện có chiều rộng. Kết thúc mùa khô 1973- 1974, toàn tỉnh thắng lợi vượt mức chỉ tiêu, ta bức diệt 129 đồn bót, giải phóng 31 ấp với 24.322 dân. Phát huy thắng lợi ta liên tiếp mở các cao điểm hàng tháng và chiến dịch muà nước 1974 bằng kết hợp 3 mũi liên tiếp tấn công địch. Địch bị động đối phó, sức can viện giải toả giảm sút rõ rệt. Cuối tháng 9 năm 1974 ta giải phóng cơ bản 2 xã, giải phóng phần lớn 6 xã, giải phóng 91 ấp, đưa lên tranh chấp thế ta mạnh 72 ấp, tranh chấp ngang 43 ấp, địch chỉ còn kềm 181 ấp.
Ngày 1/4/1975, Bộ chính trị Ban chấp hành TW Đảng họp. Sau khi đánh giá thắng lợi đã đạt được, phân tích tình hình địch-ta, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược “giải phóng miền Nam trong giai đoạn sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 năm 1975, không thể chậm hơn”. Tỉnh ủy chỉ thị cho toàn Đảng bộ, quân và dân Vĩnh Long xúc tiến công tác chuẩn bị. Mỗi địa phương đều có kế hoạch chuẩn bị tấn công nổi dậy của địa phương theo phương hướng “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”.
Địch đưa về Vĩnh Long 2 trung đoàn chủ lực cậm quân trên quốc lộ 4 từ Vĩnh Long đến Bình Minh. Vào chiến dịch Hồ Chí Minh, Vĩnh Long được giao nhiệm vụ đánh quân địch đang co cụm trên quốc lộ 4, sau đó được lệnh vào đêm 30/4/1975 tiến công vào đầu não địch ở Thị xã Vĩnh Long.
Khi chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn, toàn quân, toàn dân Vĩnh Long hình thành ba mũi tấn công áp sát thị xã Vĩnh Long; đồng thời tiến hành bao vây chặt các Chi khu Trà Ôn, Tam Bình, Mang Thít, Bình Minh, cắt đứt giao thông để không cho địch có cơ hội cầu viện từ Cần Thơ. Với sức tấn công thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng, quân ta đã bao vây, tiêu hao sinh lực địch, vừa kềm chặt, vừa căng địch ra trên khắp các địa bàn để đánh. Sức tấn công của quân ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào ở các đô thị trong tỉnh nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều nơi trong thị xã, thị trấn, thị tứ.
Trưa ngày 30/4/1975 Tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh đầu hàng. Sài Gòn giải phóng, bọn tư lệnh vùng 4 chiến thuật ở Cần Thơ cũng đầu hàng, lực lượng vũ trang áp sát thị xã Vĩnh Long, đồng chí Ba Trung (Nguyễn Đệ) lên máy kêu gọi đại tá Lê Trung Thành - Tỉnh trưởng - kiêm Tiểu khu trưởng Vĩnh Long đầu hàng, nhưng bọn chúng vẫn ngoan cố ra lệnh cho cấp dưới “tử thủ”.
Đến 15 giờ ngày 30/4 các lực lượng vũ trang đánh sâu vào các cứ điểm quan trọng, tạo điều kiện cho phong trào quần chúng trong nội ô nổi dậy giải giáp số tề ngụy và kêu gọi binh lính địch đầu hàng. Đến 18 giờ ngày 30/4/1975, trung đoàn 14, 16 của địch từ Bình Minh kéo về đến cầu Đôi thì bỏ súng ống, xe pháo ngổn ngang tìm đường trốn chạy. Trong khi đó cùng với các địa điểm khác như: chi khu Cái Nhum, Tam Bình, Bình Minh, Trà Ôn, Vũng Liêm bị ta tấn công đang trong tình trạng nguy cấp, lực lượng vũ trang phối hợp với lực lượng quần chúng nổi dậy chiếm hầu hết các tề xã và các mục tiêu quan trọng trên địa bàn thị xã Vĩnh Long.
Trước tình hình không thể cứu vãn nổi, tên đại tá Lê Trung Thành - tỉnh trưởng Vĩnh Long buộc phải đầu hàng lúc 20 giờ ngày 30/4/1975. Tỉnh Vĩnh Long được hoàn toàn giải phóng.
Tỉnh Cửu Long
Mùa xuân năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, mở ra một giai đoạn lịch sử mới, giai đoạn hòa bình, độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước.
Vĩnh Long bị chiến tranh tàn phá suốt 30 năm (1945-1975). Chuyển sang giai đoạn mới Đảng bộ và Nhân dân Vĩnh Long phải đương đầu với rất nhiều khó khăn ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là vấn đề cấp bách phải khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định cuộc sống, ổn định tư tưởng.
Trong những ngày đầu mới giải phóng, Ủy ban quân quản đã xây dựng bộ máy tổ chức hành chính bước đầu theo đặc thù của địa bàn đề triển khai chính sách; thiết lập trật tự xã hội mới, giữ vững và củng cố an ninh chính trị, từng bước ổn định cuộc sống của Nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết số 245-NQ/TW ngày 20/9/1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ khu hợp tỉnh và Nghị quyết số 19/NQ ngày 20/12/1975 của Bộ Chính trị về việc điều chỉnh hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam Việt Nam, đến tháng 2/1976, Chính phủ cách mạng Lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Theo đó, ở miền Nam có 21 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh được sáp nhập thành tỉnh Cửu Long. Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh Cửu Long được thành lập vào đầu năm 1976 do đồng chí Nguyễn Ký Ức (Sáu Ức) làm Chủ tịch, tích cực phát động quần chúng xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng hệ thống chính quyền từ tỉnh xuống xã, ấp, khóm.
Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Cửu Long do đồng chí Hồ Nam (5 Đạt) làm Bí thư đã phát động đợt sinh hoạt chính trị, chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thống nhất nước nhà.
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống chính quyền các cấp, công tác xây dựng Đảng cũng được chú trọng. Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội toàn quốc của Đảng, Đảng bộ Cửu Long đã tiến hành họp Đại hội lần thứ I (ngày 26/11/1976) để quyết định việc cụ thể hóa và vận dụng đường lối, chính sách của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương.
Sau gần 2 năm khắc phục hậu quả chiến tranh, Đảng bộ và Nhân dân Vĩnh Long đã xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính quyền cách mạng từ tỉnh, huyện, xã; trật tự xã hội từng bước ổn định, đưa đại bộ phận nông dân về ruộng vườn cũ, khôi phục sản xuất, quét sạch tàn dư phản động, thống nhất quản lý tài chính, ngân hàng, mọi hoạt động của Nhân dân trở lại bình thường.
Đến năm 1986, qua hơn 10 năm khác phục hậu quả chiến tranh, bước đầu xây dựng cuộc sống mới, bộ mặt kinh tế - xã hội - văn hóa của tỉnh Cửu Long đã có những biến đổi khá toàn diện và sâu sắc.
+ Lĩnh vực kinh tế: Năng suất lúa từ hơn 20 tạ/ha năm 1976 lên 40 tạ/ha vào năm 1984, số lương thực cung cấp cho Nhà nước cũng tăng lên từ 49.698 tấn (1976) đến 138.749 tấn (1984); số lượng vật nuôi tăng lên đáng kể, năm sau tăng hơn năm trước, góp phần cung cấp sức kéo và nguồn thực phẩm phục vụ cho Nhân dân; giá trị tổng sản lượng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng hàng năm từ 10,94%-31,2%; phát triển thương mai, dịch vụ với việc thành lập các công ty ăn uống, khách sạn, công ty du lịch, hợp tác xã mua bán, phát triển hoạt động xuất nhập khẩu…
Một trong những thành tựu lớn của Cửu Long giai đoạn từ năm 1976-1985 là việc đưa điện cao thế về vùng nông thôn. Năm 1975 lưới điện chỉ có ở nội ô thị xã Vĩnh Long, đến năm 1977 lưới điện về đến huyện Long Hồ và Tam Bình, năm 1979, điện về đến huyện Trà Ôn, năm 1980 về đến huyện Vũng Liêm và năm 1984 về đến huyện Mang Thít.
+ Lĩnh vực văn hóa - xã hội: cùng với việc xây dựng chính quyền nhân dân, cuộc đấu tranh chống những tàn dư văn hóa thực dân mới và những hiện tượng văn hóa không lành mạnh đã được triển khai nhanh chóng. Từ năm 1975-1985, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế.. ở Cửu Long đã có bước phát triển đáng kể. Hệ thống giáo dục được hoàn chỉnh gồm các cấp học: mẫu giáo, phổ thông và chuyên nghiệp. Tổ chức các lớp bổ túc văn hóa dưới các hình thức tập trung, ngắn ngày. Xây dựng được một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật để thực hiện công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe Nhân dân từ tỉnh đến cơ sở, huyện nào cũng có bệnh viện, phương, xã nào cũng có trạm y tế. Thành lập các cơ sở phòng chống các bệnh xã hội và tổ chức mạng lưới các đơn vị chuyên môn như: vệ sinh phòng dịch, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, kiểm nghiệm dược phẩm…
+ Lĩnh vực an ninh quốc phòng: Trên lĩnh vực an ninh quốc phòng cũng đạt được những thành tích rất đáng tự hào. Tăng cường công tác quản lý xã hội, ổn định chính trị, đưa mọi hoạt động của Nhân dân sớm trở lại bình thường. Lực lượng vũ trang không chỉ tích cực chiến đấu bảo vệ quê hương mà còn làm nghĩa vụ quốc tế giúp bạn Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân Campuchia.
Cuối năm 1986, Đại Hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã vạch ra phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội trong 5 năm (1986-1990) nhằm đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho Nhân dân.
Đầu tháng 10/1986, Đại hội Đảng bộ tỉnh Cửu Long lần thứ IV đã chỉ rõ hiện trạng kinh tế - xã hội của tỉnh và nhất trí cao về việc đi vào đổi mới nhằm vào mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng một nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã tập trung giải quyết các mối quan hệ chủ yếu trong đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh là đẩy mạnh sản xuất với làm chủ phân phối lưu thông, kết hợp phát triển kinh tế chiều sâu với phát triển kinh tế chiều rộng, cải tạo, sử dụng các thành phần kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế tại chỗ với hợp tác kinh tế và xuất khẩu…
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long - lần thứ V (Nhiệm kỳ 1991-1995) được diễn ra từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 8 năm 1992, tiếp tục phát triển chủ trương, đường lối của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV. Đại hội vạch ra phương châm chủ yếu để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Vĩnh Long từ năm 1992-1996 là phải bắt đầu đi lên từ nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, tăng năng suất, tăng giá trị, tăng tỷ lệ hàng hóa và tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu…
Kỳ họp lần thứ 10, Quốc hội khóa VIII (tháng 12/1991) đã ra quyết định tách tỉnh Cửu Long thành 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh. Tỉnh Vĩnh Long gồm: thị xã Vĩnh Long và 5 huyện Long Hồ, Vũng Liêm, Bình Minh, Tam Bình, Trà Ôn có diện tích 1.487,34km2, dân số 957.281 người, tỉnh lỵ đặt tại Thị xã Vĩnh Long. Huyện Mang Thít thuộc tỉnh Vĩnh Long cũng được thành lập lại.
Từ khi Quốc hội quyết định tách tỉnh Cửu Long thành 2 tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Đảng bộ, chính quyền 2 tỉnh đã tích cực chuẩn bị, tạo tiền đề để 2 tỉnh đi vào hoạt động. Sau 5 tháng chuẩn bị, ngày 05/5/1992 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh chính thức đi vào hoạt động.
Vĩnh Long qua 30 năm tái lập tỉnh (1992-2022)
Lĩnh vực kinh tế
Từ khi được tái lập, trong điều kiện khó khăn của một tỉnh nhỏ, điểm xuất phát thấp, công nghiệp chưa phát triển, kinh tế dựa trên nông nghiệp là chính, đời sống Nhân dân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Tuy nhiên, cùng với sự quyết tâm, đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn của Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Vĩnh Long, đến nay tỉnh đã thoát khỏi tình trạng của một tỉnh nghèo, vươn lên trở thành tỉnh khá trong khu vực đồng bằng Sông Cửu Long; kinh tế địa phương đi vào thế ổn định và tăng trưởng vượt bậc, chuyển dịch cơ cấu đúng hướng và hiệu quả; thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh… Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tập trung đầu tư, các ngành công nghiệp, dịch vụ đã được duy trì và có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp ngày càng lớn cho tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề để phát triển kinh tế tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn đã đưa Vĩnh Long thành một tỉnh có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có công nghiệp và dịch vụ phát triển vững chắc đồng thời đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nên việc chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế luôn bám sát với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thực hiện tốt chính sách khuyến khích đầu tư, tạo môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi, phát triển kinh tế nhiều thành phần, các nguồn lực huy động cho phát triển ngày càng tăng.
Trong giai đoạn 1992 đến 2021 tuy chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ khu vực và thế giới, sự suy giảm kinh tế toàn cầu, đặc biệt là diễn biến bất lợi của biến đổi khí hậu trong những năm gần đây, tình hình dịch bệnh COVID-19 đã và đang diễn biến phức tạp… làm ảnh hưởng rất lớn đến tình hìnhphát triển kinh tế- xã hội của tỉnh nhà. Tuy nhiên, nhiều năm liền, tốc độ tăng tưởng kinh tế của tỉnh vẫn duy trì, năm sau cao hơn năm trước. Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh liên tục tăng, từ 1,51 triệu đồng (giá hiện hành) năm 1992, đến năm 2021 đạt mức 55,5 triệu đồng, tăng gấp 36 lần so với năm 1992. Môi trường kinh doanh không ngừng được cải thiện, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh luôn được duy trì trong nhóm tốt của cả nước. Thu hút được nhiều dự án có quy mô ngày càng lớn. Góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, đến nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 35,23% GRDP, khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chiếm 64,77%. Nguồn lực từ Nhân dân được phát huy. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế được đẩy mạnh, nhất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng hoàn thiện theo hướng hiện đại, kết nối có hiệu quả trong và ngoài tỉnh. Hoàn thành trước 02 năm mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội
Các mặt văn hóa - xã hội phát triển nhanh, bền vững. Đời sống vật chất, tinh thần của phần lớn người dân được cải thiện. Con người mới, đời sống mới được chú trọng xây dựng và tạo chuyển biến tích cực; chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên đáng kể, cơ bản đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội, ưu đãi người có công, “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho người có công và gia đình được mở rộng, toàn diện và đi vào chiều sâu, triển khai kịp thời, đồng bộ. Công tác giảm nghèo được tập trung thực hiện với nhiều giải pháp quyết liệt, tích cực, hiệu quả,giảm nghèo đa chiều theo hướng bền vững, bình quân hàng năm giảm trên 1% hộ nghèo. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế tăng qua các năm, ước đến năm 2020 đạt 90,2%.
Quy mô giáo dục tiếp tục tăng, mạng lưới trường học các cấp được mở rộng khắp địa bàn, đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh, thu hút và huy động học sinh đến trường đạt tỷ lệ ngày càng tăng. Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên. Cơ sở vật chất trường học được tăng cường, tạo sự thay đổi rõ nét về cơ sở trường học. So với năm 1992, đến nay đã xây dựng thay thế toàn bộ các điểm trường bằng tre lá và chuyển sang đầu tư xây dựng kiên cố hóa trường, lớp học đạt tỷ lệ 100%.Thành tựu nổi bật nhất là tỉnh Vĩnh Long đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập giáo dục Trung học cơ sở từ năm 2005.
Mạng lưới y tế của tỉnh đã trải rộng khắp địa bàn, đặc biệt là sự đầu tư xây dựng nhiều bệnh viện tư nhân với quy mô lớn, có nhiều trang thiết bị và công nghệ hiện đại đã tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho cho việc chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám chữa bệnh cho người dân. Đội ngũ cán bộ, công chức, y bác sỹ thuộc ngành Y tế được quan tâm đào tạo nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, thực hiện tốt 12 Điều quy định về y đức, tạo được sự tin tưởng của Nhân dân. Việc khám, chữa bệnh với nhiều phương thức đa dạng như khám chữa bệnh theo Bảo hiểm y tế, khám quản lý điều trị miễn phí cho đối tượng chính sách có công với cách mạng, người nghèo, khám nghĩa vụ quân sự, khám sức khỏe cho lao động trong độ tuổi,… Qua việc khám bệnh đã phát hiện và giải quyết tốt các trường hợp bệnh tiềm ẩn, cấp cứu đảm bảo được sức khỏe cho nhân dân và cộng đồng.
Đặc biệt trong năm 2021, với diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19 trên địa bàn tỉnh, hệ thống y tế các cấp được đẩy mạnh đầu tư các trang thiết bị hiện đại phục vụ nhu cầu của công tác điều trị và phòng chống dịch tại địa phương; đội ngũ cán bộ, y bác sĩ, nhân viên y tế các cấp được quan tâm bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ phù hợp với tình hình mới và đã có nhiều nỗ lực, ra sức phục vụ Nhân dân. Ngành y tế tỉnh đã tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh nhiều giải pháp hiệu quả để cách ly, điều trị cho bệnh nhân, đảm bảo kiểm soát tốt tình hình dịch bệnh trên địa bàn.
Các công trình văn hóa, thiết chế văn hóa trong tỉnh được quan tâm đầu tư, dần dần được hoàn thiện; hoạt động văn hóa, nghệ thuật chất lượng ngày càng nâng cao, đã góp phần làm sinh động thêm đời sống văn học nghệ thuật tỉnh nhà. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong cộng đồng, lấy văn hóa làm nền tảng, làm động lực thúc đẩy kinh tế xã hội thông qua các cuộc vận động “Xây dựng nếp sống văn minh nơi công cộng”; cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã làm thay đổi cơ bản đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội ở Vĩnh Long; phát huy tốt dân chủ, giữ vững kỷ cương, giữ gìn sự ổn định về chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội có chuyển biến tích cực. Các giá trị truyền thống gia đình, dòng họ được phát huy trong xây dựng nhân cách con người và gia đình văn hóa. Việc xây dựng phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ, lối sống lành mạnh trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động luôn được các ngành, các cấp chỉ đạo chặt chẽ.
Công tác xây dựng hệ thống chính trị
Do nhu cầu lãnh đạo và quản lý xã hội, phát triển kinh tế, giữ gìn an ninh chính trị trật tụ an toàn xã hội, theo kiến nghị của Hội đồng nhân dân tỉnh Cửu Long, ngày 26/12/1991, tại kỳ họp lần thứ 10, Quốc hội khoá VIII đã ra quyết tách tỉnh Cửu Long thành hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh.
Năm 1992, khi mới tái lập, toàn tỉnh chỉ có 10 tổ chức cơ sở Đảng với 11.000 đảng viên. Qua 30 năm phát triển, các tổ chức cơ sở đảng không ngừng phát triển, đến nay toàn tỉnh có trên 463 tổ chức cơ sở Đảng với hơn 43.000 đảng viên, chiếm gần 3,8% dân số toàn tỉnh.
Hệ thống chính trị không ngừng được củng cố, kiện toàn và nâng chất. Phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ có nhiều đổi mới. Công tác tư tưởng, giáo dục truyền thống, đạo đức, lý tưởng... cho cán bộ, đảng viên được tập trung. Lãnh đạo thực hiện nghiêm túc, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kiện toàn tổ chức bộ máy và tinh giảm biên chế trong hệ thống chính trị. Đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đạt kết quả nhất định.
Xây dựng Đề án và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, Đề án thực hiện tinh giản đầu mối bên trong, hợp nhất tổ chức, bộ máy của tổ chức đảng, sáp nhập một số cơ quan có nhiệm vụ tương đồng, nhất thể hóa chức danh lãnh đạo, quản lý, giảm số lượng lãnh đạo cấp tỉnh, cấp phòng đảm bảo tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị các cấp tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Công tác dân vận tiếp tục được tăng cường, nội dung phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới đi vào chiều sâu. Cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy được sắp xếp tinh gọn hơn, số lượng cấp trưởng, cấp phó giảm mạnh, từng bước chuẩn hóa chức năng, nhiệm vụ và giảm biên chế phù hợp.
Công tác kiểm tra, giám sát có nhiều chuyển biến tích cực; công tác thi hành kỷ luật trong Đảng ngày càng chặt chẽ, công khai, dân chủ hơn theo quy định của Đảng, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, tạo điều kiện thuận lợi để đảng viên có vi phạm phát huy dân chủ, thực hiện tốt quyền của đảng viên, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Lĩnh vực quốc phòng - an ninh
Trên lĩnh vực an ninh quốc phòng từ năm 1992 đến nay không ngừng lớn mạnh trên các mặt chiến đấu, xây dựng lực lượng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng được thế trận an ninh nhân dân đều khắp các khóm, ấp.
Cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh, 30 năm qua lực lượng công an, quân sự tỉnh nhà luôn vượt qua mọi khó khăn thử thách, dũng cảm kiên cường, tiên phong trong mọi nhiêm vụ, xứng đáng là công cụ tin cậy của Đảng và Nhân dân, đã không ngừng xây dựng lực lượng ngày càng lớn mạnh, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao, đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Chủ động nắm chắc tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền chỉ đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, tham gia vào tổng thể quá trình phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội. chủ động và phối hợp trong đấu tranh làm thất bại âm mưu "Diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch và các phần tử chống đối trong và ngoài nước; tấn công, triệt xóa các loại tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, xứng đáng là công cụ chuyên chính bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, luôn có mặt trên các trận tuyến đấu tranh và phát triển, phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh tại địa phương.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong lực lượng vũ trang luôn được chú trọng, kịp thời triển khai, quán triệt tuyên truyền chủ trương của Đảng, Nhà nước và Quân đội về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, công tác quân sự, quốc phòng địa phương. Qua đó đã giúp lực lượng vũ trang luôn giữ vững trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, giữ nghiêm kỷ luật, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới của đất nước, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ, không có các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, tự diễn biến trong nội bộ.
Quốc phòng - an ninh được tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được kéo giảm từng bước, nhất là tai nạn giao thông. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế từng bước được đẩy mạnh. Những thành quả đạt được sau 30 năm đã tạo ra thế và lực mới để Vĩnh Long phát triển và trở thành tỉnh khá trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2020.
Vĩnh Long hướng đến tương lai
Mục tiêu của Vĩnh Long là phát triển tỉnh Vĩnh Long nhanh và bền vững, thật sự có bước đột phá; phát huy tiềm năng và lợi thế của tỉnh, đáp ứng được nhu cầu phát triển của tỉnh trong 5 năm tới, nhất là phát triển nông nghiệp, nông thôn và thích ứng với sự biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long. do đó, trước mắt sẽ tập trung cho 03 khâu đột phá quan trọng là:
Một, phát triển nguồn nhân lực phục vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tập trung nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý và lao động có tay nghề cao.
Hai, tiếp tục đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trọng tâm là phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, giao thông phục vụ sản xuất nông nghiệp và du lịch.
Ba, đẩy mạnh thu hút các dự án đầu tư vào đô thị, thương mại, nông nghiệp chất lượng cao, công nghiệp chế biến và dịch vụ du lịch.
Để thực hiện 3 khâu đột phá, tỉnh sẽ xây dựng 06 chương trình hành động thực hiện: (1) Chương trình “thu hút vốn đầu tư giai đoạn 2021 - 2025”. (2) Chương trình “đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật giai đoạn 2021 - 2025”. (3) Chương trình “giải quyết việc làm và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025”. (4) Chương trình “phát triển đô thị và nhà ở tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2021 - 2025”. (5) Chương trình “phát triển khu, cụm, tuyến công nghiệp tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2021 - 2025”. (6) Chương trình “phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2021 - 2025”.
Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã xác định 06 chương trình trọng điểm gồm: Chương trình khuyến nông trọng điểm giai đoạn 2021 - 2025. Chương trình khuyến công tỉnh Vĩnh Long đến năm 2025. Chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2021 - 2025. Chương trình hành động thực chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030. Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường xây dựng Đảng bộ tỉnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức, nhất là xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn hiện nay. Chương trình công tác dân vận cấp ủy thực hiện Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh.
Để thực hiện tốt các khâu đột phá và các chương trình trọng điểm của tỉnh, Vĩnh Long dự kiến sẽ ban hành 27 đề án trọng tâm để triển khai có hiệu quả các chương trình phục vụ cho 03 khâu đột phá, trong đó có một số đề án quan trọng như: Đề án “Cơ cấu lại ngành công thương tỉnh Vĩnh Long đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035”. Đề án “Nâng cao năng lực xuất khẩu tỉnh Vĩnh Long” giai đoạn 2021-2025. Đề án “Tổ chức hệ thống tiêu thụ nông - thủy sản gắn với cơ cấu lại nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long” giai đoạn 2021 - 2025. Đề án “Phát triển dịch vụ đô thị thông minh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn 2030”. Đề án “Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù Vĩnh Long”. Đề án “Xây dựng và phát triển con người Vĩnh Long, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn 2030”. Đề án “Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý, sử dụng internet và mạng xã hội trên địa bàn tỉnh” giai đoạn 2020 - 2025.
Năm 1732, Long Hồ dinh ra đời định vị một cột mốc đất quan trọng đối với phương Nam về mặt địa lí, quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa... Và trong suốt 290 năm đồng hành cùng những biến cố thăng trầm của lịch sử, Long Hồ dinh - Vĩnh Long đã hoàn thành xuất sắc vai trò sứ mạng lịch sử của mình. Hướng đến tương lai, Vĩnh Long sẽ tiếp nối truyền thống cha ông, tinh thần đoàn kết nhất trí một lòng, dưới sự lãnh đạo của Đảng quyết tâm xây dựng tỉnh nhà ngày càng phát triển./.
Thanh Tùng