
Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh cho rằng việc triển khai thực hiện các CTMTQG trong những năm qua có ý nghĩa quan trọng, đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của giai đoạn 2021-2025. Chương trình này được triển khai đồng bộ ở các địa phương, đã tạo cơ hội và điều kiện để người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, tạo việc làm và nâng cao chất lượng nguồn lao động, góp phần phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Bên cạnh kết quả đạt được, tôi đồng tình với những hạn chế được nêu trong báo cáo kết quả giám sát của Đoàn giám sát của Quốc hội. Công tác lập kế hoạch, phân bổ vốn và giao kế hoạch theo cơ chế kế hoạch từng năm nên chưa bảo đảm sự chủ động cho địa phương; mục tiêu, nội dung của một số Chương trình còn trùng lặp với nhiệm vụ chi thường xuyên; sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình theo dõi, đánh giá các chương trình còn hạn chế.
Từ thực tiễn quản lý ở địa phương, Đại biểu Nguyễn Thị Quyên Thanh có một số ý kiến như sau:
Thứ nhất, thống nhất đề xuất của Chính phủ đề nghị Quốc hội phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư phát triển của Chương trình đến hết năm 2025, do một số khó khăn, vướng mắc như đã nêu. Giao Chính phủ rà soát, xác định rõ số vốn cần kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân của từng dự án, trên cơ sở đó báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Thứ hai, chính sách tín dụng ưu đãi do Ngân hành chính sách xã hội thực hiện là một cấu phần quan trọng trong các CTMTQG. Chính sách này đã tạo điều kiện cho người nghèo, đồng bào DTTS và các đối tượng chính sách khác tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước một cách thuận lợi, nhanh chóng; các chương trình tín dụng được tổ chức thực hiện có hiệu quả, đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển KTXH theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Do đó, đề nghị Quốc hội, Chính phủ tăng nguồn vốn tín dụng chính sách trong giai đoạn 2024-2025 để tiếp tục thực hiện chương trình, trong đó, tập trung ưu tiên tăng nguồn vốn đầu tư cho đồng bào DTTS, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn; chương trình vay vốn ưu đãi để thực hiện chính sách nhà ở xã hội; xem xét cho phép kéo dài thời gian hộ gia đình được thụ hưởng chính sách tín dụng cho vay đối với hộ mới thoát nghèo kể từ khi ra khỏi danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo lên tối đa là 5 năm để người dân có điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính sách, phát triển kinh tế, thoát nghèo bền vững; cho phép các xã khu vực III, II khi đạt chuẩn NTM tiếp tục được thụ hưởng chính sách tín dụng đối với vùng khó khăn trong thời gian 3 năm.
Bên cạnh đó, xem xét, điều chỉnh chính sách tín dụng cho phù hợp với thực tiễn nhằm thực hiện thành công các CTMTQG theo hướng tăng định mức và mở rộng đối tượng được vay, như nâng mức cho vay đối với các chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn... phù hợp nhu cầu đầu tư và diễn biến giá cả thị trường; bổ sung đối tượng vay vốn tín dụng chính sách để sản xuất kinh doanh đối với hộ làm nông nghiệp có mức sống trung bình, tạo điều kiện cho các đối tượng này có điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính sách để sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống và vươn lên làm giàu.
Thứ ba, CTMTQG đã góp phần tạo diện mạo mới cho vùng đồng bào DTTS và miền núi; đời sống của đồng bào các DTTS được cải thiện rõ nét. Tuy nhiên, theo Kết luận 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị thì so với sự phát triển chung của cả nước và từng địa phương, đời sống của đồng bào DTTS vẫn còn nhiều khó khăn, KTXH phát triển chậm; tỉ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo còn cao. Vì vậy cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung tiêu chí, chương trình, dự án theo tinh thần Kết luận 65; nghiên cứu, khai thác tiềm năng, phát huy thế mạnh của địa phương, phù hợp với văn hoá, tập quán từng dân tộc nhằm hỗ trợ tốt hơn cho đời sống vật chất tinh thần của người dân, góp phần phát triển đồng bộ, bền vững vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Thứ tư, việc xây dựng NTM bền vững gắn với việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống; tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân; bảo vệ cảnh quan, không gian và môi trường; xây dựng các khu dân cư, làng văn hóa, góp phần thúc đẩy phát triển KTXH nông thôn bền vững. Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 801/QĐ-TTg ngày 07/7/2022 phê duyệt Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030. Tuy nhiên, Quyết định này chưa được triển khai quyết liệt, vì vậy địa phương cũng gặp không ít khó khăn trong việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ, bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề; chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, người có công bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa nghề truyền thống. Một số làng nghề đã được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia có nguy cơ bị mai một, thất truyền. Vì vậy, đề nghị các bộ, ngành nghiên cứu, sớm triển khai và hướng dẫn địa phương thực hiện Quyết định số 801 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó cần chú trọng việc rà soát các nội dung, chính sách bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề.
Thứ năm, đề nghị nghiên cứu cơ chế giao tổng kế hoạch vốn sự nghiệp cho địa phương thực hiện các CTMTQG, còn dự toán chi tiết đến từng dự án, nguồn vốn theo từng dự án, lĩnh vực cụ thể để các địa phương chủ động triển khai; đồng thời cho phép được điều chỉnh kế hoạch vốn hàng năm giữa các dự án, tiểu dự án cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn và khả năng giải ngân, điều chỉnh nguồn vốn từ các dự án thực hiện chưa hiệu quả hoặc không có địa bàn, đối tượng thụ hưởng sang thực hiện các dự án khác có nhu cầu vốn nhiều hơn đảm bảo thực hiện đúng đối tượng và địa bàn thụ hưởng của dự án theo quy định. Thực tế hiện nay, các địa phương còn gặp một số khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện các CTMTQG, trong đó việc phân bổ vốn sự nghiệp cho một số tỉnh chưa phù hợp do địa phương không có đối tượng hoặc có đối tượng không theo quy định./.
Đình Thi