Khởi nghĩa muốn giành thắng lợi thì nó phải là một cuộc tổng khởi nghĩa, khi mà nhân dân cả nước nhất tề cùng đứng lên đánh giặc, giành lấy chính quyền. Cả Nam bộ rạo rực không khí chuẩn bị. Nhiều cuộc biểu tình nổ ra giữa ban ngày. Có nơi, khi bọn mật thám kéo đến bắt cán bộ, nhân dân nổi trống mõ uy hiếp, đánh tháo. Làng nào cũng có lò rèn ngày đêm sản xuất vũ khí. Nhân dân góp nồi đồng, mâm thau, lư hương để du kích đúc đạn. Phong trào chống chiến tranh, chống bắt lính với khẩu hiệu không một người lính, không một đồng xu cho đế quốc chiến tranh diễn ra sôi nổi trong nhân dân và binh lính.

Tuy nhiên, Trung ương nhận định điều kiện khởi nghĩa ở Nam Kỳ và trong cả nước chưa chín muồi nhưng lệnh khởi nghĩa lúc đó đã phát đi khắp nơi không thể thu hồi lại. Đáng tiếc hơn nữa, kế hoạch của cuộc khởi nghĩa đã phần nào bị địch đánh hơi thấy trước ít ngày, đồng thời các đồng chí lãnh đạo chủ chốt bị bắt nên kế hoạch định lấy tiếng súng đánh chiếm thành phố Sài Gòn vào lúc 24 gờ 22.11.1940 làm súng lệnh không thành!
Mặc dầu vậy, đêm 22 rạng sáng 23 tháng 11 năm 1940 cuộc khởi nghĩa Nam kỳ vẫn bùng nổ với khí thế mạnh mẽ và quy mô lớn chưa từng có. Nông thôn Nam bộ rung chuyển. Từ Biên Hòa đến Cà Mau, 18 tỉnh nổi dậy cướp chính quyền. Khởi nghĩa nổ ra ở hầu khắp các tỉnh từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ. Cả vùng nông thôn rung chuyển trước sức mạnh tiến công của quần chúng cách mạng. Nhiều đồn bốt, công sở, đường giao thông... của địch bị phá. Tại một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng được thành lập tịch thu ruộng đất của địa chủ và phản động chia cho dân cày nghèo, trừng trị bọn phản cách mạng... Cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện trong nhiều cuộc biểu tình và những nơi đã thành lập chính quyền cách mạng.
Ở tỉnh Vĩnh Long, công tác chuẩn bị, phân công đều được lên kế hoạch từ trước tháng 10/1940 như thành lập Ban Khởi nghĩa gồm: Đồng chí Thái Văn Đẩu- Bí thư Tỉnh ủy- làm Trưởng ban khởi nghĩa; đồng chí Ngô Thị Huệ- Phó Bí thư- làm Phó ban, trực tiếp lãnh đạo tỉnh lỵ và quận Châu Thành; đồng chí Nguyễn Thị Hồng- Tỉnh ủy viên, Bí thư Quận ủy Vũng Liêm- trực tiếp lãnh đạo quận Vũng Liêm; đồng chí Nguyễn Văn Nhứt (Nguyễn Hiếu Tự)- Tỉnh ủy viên, Bí thư Quận ủy Tam Bình- trực tiếp lãnh đạo quận Tam Bình. Ban Chỉ huy quân sự tỉnh được thành lập gồm đồng chí Quảng Trọng Hoàng, Xứ ủy viên, thành viên Ban Khởi nghĩa liên tỉnh - phụ trách Quân sự, làm Trưởng ban và các đồng chí Nguyễn Hùng Phước, Nguyễn Hùng Minh và một số đồng chí khác nữa (Theo Kỷ yếu khoa học Khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vĩnh Long năm 1940 - Trang 184).
Mục tiêu của khởi nghĩa là chiếm những nơi yết hầu của địch, giải thoát các đồng chí trong nhà tù, phá hệ thống giao thông, liên lạc nhằm cản bước tiến quân và rút lui của địch; khi khởi nghĩa thành công thì thành lập chính quyền công- nông- binh theo hình thức Xô Viết. Đầu tháng 11/1940, kế hoạch khởi nghĩa ở tỉnh và các quận được đề ra, phân công cụ thể, lực lượng khởi nghĩa sẵn sàng hành động khi có lệnh của Xứ ủy Nam Kỳ.
Kế hoạch khởi nghĩa ở tỉnh lỵ bị lộ, địch chủ động bố phòng nghiêm ngặt, nên các mục tiêu của cuộc khởi nghĩa ở tỉnh lỵ không thực hiện được. Cả khu vực nội ô hoàn toàn im lặng, lính Tây tuần tra chốt chặn khắp các ngả đường. Ban Khởi nghĩa ở tỉnh lỵ đã chuyển hướng hành động. đồng chí Ngô Thị Huệ dẫn một bộ phận vũ trang khoảng 50 người tiến công quận lỵ Long Hồ chiếm Nhà việc, đốt hết sổ sách, giấy tờ của địch, phá cầu Ông Me và cầu Long Hồ, cắt đường dây điện thoại, đốn cây và đem đồ vật dựng chướng ngại vật trên đường lộ, cản mũi tiến quân của địch.
Tại quận Tam Bình, khởi nghĩa chia thành 3 mũi tấn công. Mũi thứ nhất có nhiệm vụ đánh vào dinh quận và trại lính Mã tà. Mũi thứ hai có nhiệm vụ đánh chiếm đồn Trà Luộc. Mũi thứ ba có nhiệm vụ đánh trụ sở làng Mỹ Thạnh Trung và chặn đường tiếp viện của địch từ tỉnh lỵ Vĩnh Long vào quận lỵ Tam Bình. Đúng 12 giờ đêm 22/11/1940, cả 3 mũi được lệnh tiến công địch.
Tại quận Vũng Liêm, chia thành 3 mũi. Mũi thứ nhất có nhiệm vụ tiến công vào quận lỵ Vũng Liêm. Mũi thứ hai có nhiệm vụ đánh chiếm đồn Trung Ngãi, làm chủ tình hình, chủ động đánh quân can viện từ Trà Vinh lên. Mũi thứ ba có nhiệm vụ đánh phá khu vực phà Nước Xoáy và ngăn chặn đường chi viện địch từ Vĩnh Long xuống. Tại quận lỵ Vũng Liêm cũng như các làng Quới Thiện, Trung Ngãi, Hiếu Thành, Hồi Luông,… nhân dân khởi nghĩa thắng lợi làm chủ tình hình, giải tán bộ máy tề ngụy, làm chủ xóm ấp.
Tại quận Trà Ôn và Cầu Kè (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Cần Thơ) được Tỉnh ủy Cần Thơ phân công phối hợp cùng với lực lượng quận Cầu Kè đánh chiếm quận lỵ Cầu Kè.

Sau khi khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vĩnh Long thất bại, thực dân Pháp huy động lính Pháp, lính lê dương và bọn phản động ở địa phương, tiến hành đợt khủng bố trắng. Chúng truy lùng quân khởi nghĩa và bắt những người từng ủng hộ khởi nghĩa, từ ngày 22/11/1940 đến 31/11/1940, địch đã bắt 611 người, trong đó có 102 cán bộ, đảng viên và chiến sĩ bị giam cầm và hy sinh tại Côn Đảo (Theo Kỷ yếu khoa học Khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vĩnh Long năm 1940 - Trang 198).
Khi bắt được những đảng viên cộng sản hoặc quần chúng cách mạng, chúng tra tấn dã man. Hậu quả khủng bố trắng của thực dân Pháp ở Vĩnh Long, đặc biệt là quận Vũng Liêm, Tam Bình đã làm cho cách mạng gặp nhiều khó khăn. Đến cuối năm 1940 đầu năm 1941, phần lớn cơ sở đảng trong tỉnh Vĩnh Long bị đánh phá và tan vỡ, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống, chờ thời cơ mới.
Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ở Vĩnh Long thất bại do chưa đủ điều kiện chín muồi cho một cuộc tổng khởi nghĩa trong phạm vi Nam Kỳ và cả nước, thêm vào đó kế hoạch trước đó đã bị lộ nên địch có sự phòng bị kỹ càng nên một số nơi chưa đạt kết quả. Tuy nhiên, như đánh giá của nhiều chuyên gia khởi nghĩa Nam kỳ là trang sử oanh liệt của đất Vĩnh Long, của miền Nam "đi trước về sau" trên suốt chặng đường cách mạng của đất nước. Cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ khởi nghĩa là hiệu kèn giải phóng hùng dũng báo hiệu thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Sự kiện này không những là mốc son của dân tộc, mà còn để lại cho chúng ta nhiều bài học quý báu.
(1) Bài học về xác định thời cơ, nhận định tình hình tiến hành khởi nghĩa: Tuy thời điểm này Pháp và Nhật đang mâu thuẫn nhưng, lúc này bộ máy cai trị của thực dân Pháp chưa hoàn toàn suy sụp, có sự nhượng bộ của Pháp đối với Nhật nên vẫn duy trì được địa vị thống trị ở Đông Dương. Do đó, thời cơ thì đã có nhưng điều kiện thì chưa đảm bảo nên không giành được thắng lợi. Bài học hiện nay là phải đánh giá đúng tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh, của đất nước bên cạnh những biến động của thế giới để đưa ra các giải pháp phù hợp, đặc biệt là phải đánh giá "đúng" và "trúng". Ví dụ cùng điều kiện với các địa phương giáp ranh nhưng nội lực của địa phương mình như thế nào, tiềm năng, lợi thế ra sao? Điểm mạnh, điểm yếu như thế nào? bị cản trở gì? Từ đó có những giải pháp cụ thể, ban hành những chính sách đột phá để nắm bắt thời cơ của địa phương mình.
(2) Bài học về xác định lực lượng chủ yếu, nòng cốt cho cuộc khởi nghĩa: công tác vận động binh lính địch đứng về phía cách mạng là rất quan trọng, nhưng không thể xem đây là lực lượng nòng cốt, mà chủ lực và lực lượng xung kích phải là công nông. Ở đây, Xứ ủy Nam kỳ đã chủ trương xây dựng các Hội phản đế nhằm tập hợp lực lượng đông đảo quần chúng trên cơ sở đó tổ chức các đội tự vệ, du kích, đồng thời tiến hành công tác binh vận là hoàn toàn đúng. Bài học này không chỉ đúng trong kháng chiến mà còn đúng trong giai đoạn hiện nay. Khi đã ban hành những chính sách đột phá, các giải pháp thiết thực thì cần thiết phải vận động quần chúng tích cực ủng hộ, thực hiện. Tất cả người dân, doanh nghiệp, tổ chức phải đoàn kết, quyết tâm thực hiện cho bằng được, đặc biệt là trong nội bộ "không bàn lùi", như lời Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng nói: " Không bàn tới bàn lui gì nữa hết, chỉ có làm và làm thật nhanh, hai năm đưa vào sử dụng. Ai không làm đứng qua một bên."
(3) Bài học về công tác hợp đồng, phối hợp: mỗi mũi tiến công đều được phân công phối hợp nhịp nhàng, cùng với từng địa phương để nhất tề xông lên cướp chính quyền, trong đó có cả công tác phối hợp binh vận, địch vận, công tác hậu cần, chuẩn bị đường rút lui, các tình huống xảy ra...Vì vậy khi thấy bại nhưng vẫn bảo toàn được cơ sở, cán bộ mặc dù địch khủng bố gắt gao. Trong giai đoạn hiện nay việc phối hợp giữa các nganh, các cấp là cực kỳ quan trọng, một chính sách được ban hành nhưng chậm triển khai, chậm hướng dẫn sẽ dân đến sự thất ngay từ khi ban hành. Mỗi ngành, mỗi cấp phải thấy được trách nhiệm của mình, thấy được lợi ích của chính sách đối với nhân dân, với địa phương, với ngành mình mà ra sức tổ chức thực hiện, gặp vấn đề khó thì kịp thời phối hợp ngành khác, địa phương khác giải quyết, vượt thẩm quyền thì báo cáo cấp trên. Có như thế công việc sẽ được giải quyết nhanh chóng, kịp thời.
Bài học lớn nhất từ khởi nghĩa Nam Kỳ là Đảng ta và nhân dân cả nước không gục ngã, không bi quan, không chùn bước trước thất bại mà phải đi lên từ thất bại. Trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay của đất nước, bài học không chùn bước, không gục ngã trước khó khăn thử thách là điều kiện sống còn vì tình hình thế giới và trong nước luôn đổi thay hàng ngày, luôn đặt ra những thách thức đòi hỏi phải giải quyết nên đương đầu với khó khăn là công việc phải có, người cán bộ, công chức phải không ngại khó, ngại khổ, tiên phong gương mẫu đương đầu, "dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm" để thúc đẩy công việc ngày càng tốt hơn./.
Thanh Tùng