Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Minh Trang cho biết dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn, hỗ trợ học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, người học chương trình giáo dục phổ thông tại các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân là một nội dung có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm chính trị và xã hội to lớn của Nhà nước đối với thế hệ trẻ và tương lai của đất nước, nhằm góp phần hoàn thiện dự thảo, bảo đảm nghị quyết khi được ban hành sẽ đi vào thực tiễn một cách hiệu quả nhất. Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là quyền cơ bản của con người đã được Hiến pháp Việt Nam và nhiều công ước quốc tế khẳng định. Trong suốt nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, ưu tiên cho giáo dục, với nhiều chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ học sinh vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, học sinh khuyết tật… Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mức hỗ trợ còn phân tán, chưa đồng bộ, và chưa đủ mạnh để bảo đảm quyền học tập thực chất cho mọi đối tượng. Trong bối cảnh nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nhiều hộ gia đình nhất là các hộ cận nghèo, lao động tự do ở đô thị, công nhân nhập cư, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn phải chật vật để con em được đi học đầy đủ. Vì vậy, việc ban hành Nghị quyết của Quốc hội về miễn, hỗ trợ học phí là một quyết sách nhân văn, cấp thiết và mang tính chiến lược. Điều này không chỉ hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn trước mắt mà còn là bước đi quan trọng trong lộ trình tiến tới phổ cập giáo dục toàn diện, bình đẳng và chất lượng cao đúng như tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Qua nghiên cứu dự thảo Nghị quyết, đại biểu chỉ rõ tính tích cực và sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy chính sách: Thứ nhất, dự thảo đã xác định rõ nguyên tắc không để bất kỳ học sinh nào bị bỏ lại phía sau vì lý do tài chính, phù hợp với tinh thần phát triển toàn diện con người Việt Nam; Thứ hai, nghị quyết mở rộng phạm vi thụ hưởng đến toàn bộ người học chương trình giáo dục phổ thông tại các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, tạo điều kiện công bằng giữa các vùng miền, loại hình trường công – tư; Thứ ba, dự thảo có đề cập đến cơ chế cấp bù ngân sách cho các cơ sở giáo dục, thể hiện sự quan tâm đến tính khả thi và bền vững của chính sách.

Tuy nhiên, để dự thảo Nghị quyết được hoàn thiện hơn, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH Nguyễn Thị Minh Trang đã đề xuất một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, Về phạm vi đối tượng được miễn và hỗ trợ. Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát để chính sách của Nghị quyết bao phủ các đối tượng thụ hưởng đặc thù, nhất là đối tượng trẻ em mầm non từ 3 đến 4 tuổi ở vùng khó khăn, vì đây là giai đoạn vàng của phát triển trí tuệ và nhân cách; gắn với xem xét thực hiện đồng bộ các chính sách giáo dục cho học sinh học tại các cơ sở ngoài công lập thuộc hộ nghèo, cận nghèo, dân tộc thiểu số, khuyết tật – nhằm đảm bảo bình đẳng trong thụ hưởng chính sách, tránh phân biệt theo loại hình trường; dành sự quan tâm đặc biệt hơn đến học sinh có hoàn cảnh đặc biệt như trẻ mồ côi, con hộ nghèo thành thị không thuộc diện “vùng khó”, nhưng có nhu cầu cấp thiết.
Thứ hai, Về mức hỗ trợ và tính thực chất của chính sách. Cần có cơ chế kiểm soát chặt chẽ các khoản thu ngoài học phí, công khai, minh bạch và có sự giám sát của phụ huynh, HĐND các cấp, tránh tình trạng “miễn học phí nhưng tăng thu khác”, thiết lập đường dây nóng, cổng thông tin phản ánh vi phạm chính sách để nhân dân giám sát; xem xét gói hỗ trợ toàn diện bao gồm học phí và một phần chi phí học tập như sách giáo khoa, thiết bị học tập thiết yếu đối với học sinh nghèo, học sinh vùng khó khăn;chính sách cần kết hợp chặt chẽ với các chương trình mục tiêu quốc gia như giảm nghèo bền vững, phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, để tạo hiệu ứng đồng bộ.
Thứ ba, Về cơ chế thực hiện, nguồn lực và giám sát. Cần phân định rõ trách nhiệm chi giữa ngân sách trung ương và địa phương, đặc biệt đối với các tỉnh chưa cân đôi được ngân sách, không để tình trạng “quyết tâm chính trị cao nhưng thiếu nguồn lực thực hiện, tránh tình trạng chậm cấp bù gây khó khăn cho cơ sở giáo dục.Tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, HĐND, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội để đảm bảo minh bạch, đúng đối tượng và không trục lợi chính sách.
Cũng liên quan đến dự thảo Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn, hỗ trợ học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, người học chương trình giáo dục phổ thông tại các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Quyên Thanh cho biết cử tri và Nhân dân bày tỏ sự quan tâm sâu sắc và đồng thuận với các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước như miễn học phí cho học sinh từ giáo dục mầm non đến hết bậc trung học phổ thông. Quyết sách của Bộ Chính trị về miễn học phí cho học sinh từ mầm non tới THPT không chỉ mang lại niềm vui cho hàng triệu gia đình mà còn đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực giáo dục. Miễn học phí là bám sát xu hướng phát triển của thời đại, thể hiện tầm nhìn kiến tạo tương lai, tư tưởng nhân văn vì con người của những người đứng đầu Đảng và Nhà nước. Một chủ trương phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức và một bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo quyền được giáo dục cơ bản cho mọi trẻ em. Đại biểu tin rằng, chính sách này sẽ có những tác động tích cực đến chất lượng giáo dục nói chung, đặc biệt sẽ nâng cao chất lượng giáo dục ở những địa bàn còn nhiều khó khăn về kinh tế xã hội. Tuy nhiên, thời gian tới, đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Quyên Thanh đề nghị: Thứ nhất, để chính sách phát huy hiệu quả, cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nguồn lực tài chính, đảm bảo chất lượng giáo dục không bị ảnh hưởng khi nguồn thu học phí không còn. Đồng thời, việc phân bổ ngân sách cần hợp lý để các trường công lập tiếp tục nâng cao cơ sở vật chất, chất lượng giảng dạy, và chế độ đãi ngộ cho giáo viên. Thứ hai, các Bộ, ngành trung ương tiếp tục nghiên cứu, tham mưu Chính phủ các quy định liên quan đến chính sách hỗ trợ phù hợp khác bên cạnh việc miễn học phí cho học sinh từ mầm non đến phổ thông như: hỗ trợ bữa ăn trưa cho học sinh tiểu học, nâng mức hỗ trợ BHYT cho học sinh phổ thông lên 50% và có lộ trình hỗ trợ 100% việc hướng đến hỗ trợ y tế, giáo dục cho nhân dân ngày một tốt hơn là mục tiêu đúng đắn và tiến bộ. Đây là một chính sách mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, giúp giảm gánh nặng tài chính cho các gia đình, đặc biệt là những hộ có hoàn cảnh khó khăn; thu hẹp khoảng cách vùng miền, tạo điều kiện cho trẻ em nghèo, cận nghèo, trẻ em yếu thế, khó khăn được học tập và chăm sóc tốt hơn, góp phần giảm chênh lệch phát triển giữa các vùng, đảm bảo công bằng xã hội; thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối với thế hệ tương lai của đất nước.

Bên cạnh đó, đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Quyên Thanh bày tỏ sự thống nhất cao việc ban hành Nghị quyết của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi nhằm tạo hành lang pháp lý để kịp thời triển khai chính sách an sinh xã hội, chính sách phát triển nguồn nhân lực, hướng tới mục tiêu phát triển chung, vì sự tiến bộ của đất nước trong thời kỳ “vươn mình”. Đây là bước tiến có ý nghĩa chiến lược trong việc thể chế hóa mục tiêu phát triển giáo dục mầm non, hướng đến đảm bảo quyền học tập, phát triển toàn diện cho trẻ em trong độ tuổi vàng; mục tiêu chính là tạo điều kiện để mọi trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi đều được tiếp cận với các chương trình chăm sóc, giáo dục chất lượng, góp phần phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tình cảm, kỹ năng xã hội và thẩm mỹ, chuẩn bị tốt cho trẻ em vào lớp 1. Nhà nước phải bảo đảm nguồn tài chính và nguồn nhân lực rất lớn, trong đó đặc biệt quan tâm có chính sách hỗ trợ kinh phí từ trung ương trong đảm bảo về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên, nguồn kinh phí thực hiện chế độ ăn trưa cho trẻ … Cần chú trọng hỗ trợ ăn trưa khoa học dinh dưỡng để không những đủ no mà còn giải quyết tình trạng thấp còi và phát triển trí tuệ cho trẻ. Tuy nhiên, để dự thảo Nghị quyết được hoàn thiện sớm ban hành để triển khai thực hiện, đại biểu đề nghị cần quan tâm một số nội dung như sau:
Thứ nhất, Cần xác định chỉ tiêu theo từng giai đoạn; xây dựng lộ trình tổng thể, có tính khả thi, gắn với điều kiện thực tiễn của từng địa phương, đảm bảo các yếu tố về nguồn lực, cơ sở vật chất, chương trình giáo dục, và đội ngũ giáo viên. Thứ hai, Xây dựng khung pháp lý rõ ràng, thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng, quy định về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, chương trình giáo dục mầm non thống nhất trong toàn quốc hướng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Thứ ba, Đầu tư vào hệ thống giám sát thường xuyên theo dõi và đánh giá chất lượng giáo dục mầm non để đảm bảo hiệu quả và có những điều chỉnh kịp thời. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát trong thực hiện chính sách phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi. Đây là yêu cầu cần thiết để chính sách phổ cập mầm non thực sự đi vào cuộc sống, đem lại lợi ích thiết thực cho trẻ em và xã hội; góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư và sử dụng nguồn lực Nhà nước, xã hội. Thứ tư, Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non, nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Thứ năm, Chuẩn hóa cơ sở vật chất và chương trình giáo dục mầm non đảm bảo môi trường giáo dục an toàn, hiện đại, phù hợp lứa tuổi; tăng cường hợp tác nhà nước và tư nhân giúp mở rộng nhanh chóng quy mô trường lớp. Thứ sáu, Triển khai chiến dịch truyền thông sâu rộng về tầm quan trọng của giáo dục mầm non; ý nghĩa phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3 đến 5 tuổi; trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong đưa trẻ đến trường; tăng cường sự tham gia của cha mẹ, cộng đồng và đoàn thể địa phương trong xây dựng, phát triển và giám sát hoạt động giáo dục mầm non. Với sự quan tâm, quyết tâm và đồng hành của cả hệ thống chính trị, việc phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi sẽ trở thành hiện thực, đóng góp thiết thực vào công cuộc phát triển con người Việt Nam toàn diện, xây dựng nền tảng vững chắc cho tương lai.

Đại biểu Quốc hội chuyên trách Trịnh Minh Bình cho rằng giáo dục là nền tảng cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Việc Quốc hội kịp thời ban hành hai chính sách liên quan đến miễn, giảm học phí và phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3-5 tuổi thể hiện rõ tính nhân văn và cam kết của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền được học tập cho mọi công dân, đặc biệt là trẻ em ở vùng khó khăn, dân tộc thiểu số và hộ nghèo. Chính sách này không chỉ góp phần giảm tỷ lệ bỏ học, thu hẹp khoảng cách giáo dục giữa các vùng miền, mà còn giúp giảm gánh nặng tài chính cho hàng triệu gia đình. Qua đó, tăng tỷ lệ trẻ đến lớp, duy trì sĩ số học sinh và tạo niềm tin xã hội vào hệ thống giáo dục. Đồng thời, đây cũng là một bước tiến trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia và hướng tới một xã hội học tập công bằng, văn minh.
Về Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp được quy định tại Nghị quyết số 55/2010/QH12 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 28/2016/QH14 và Nghị quyết số 107/2020/QH14. Đại biểu Quốc hội chuyên Trách Trịnh Minh Bình bày tỏ sự thống nhất cao với đề xuất tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp từ ngày 01/01/2025 đến hết 31/12/2030; đây là chính sách thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đại biểu đánh giá, chính sách này giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho người dân, khuyến khích họ giữ đất, yên tâm canh tác trong bối cảnh biến động kinh tế, giá vật tư tăng cao và thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp. Đồng thời, đây là một chính sách nhân văn, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững và công bằng xã hội.
Tuy nhiên, đại biểu cũng bày tỏ sự băn khoăn về quy định trong dự thảo nghị định có nội dung chưa rõ ràng liên quan đến diện tích đất trồng cây hàng năm kết hợp trồng lúa và kiến nghị cơ quan soạn thảo cần làm rõ. Ngoài ra, cũng có ý kiến đề nghị xem xét lại mốc thời gian hiệu lực giữa Nghị quyết của Quốc hội và Nghị định của Chính phủ để đảm bảo tính thống nhất trong thực thi chính sách./.
Quỳnh Như