
Tham dự và đồng chủ trì Hội nghị còn có ông Dương Thanh Bình, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát; bà Lê Thị Nga, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Dân nguyện và Giám sát; các Phó Chủ nhiệm; các Ủy viên là đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và đại diện Kiểm toán Nhà nước; lãnh đạo, đại biểu Quốc hội chuyên trách của các Đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Tuyên Quang, Lào Cai, Thái Nguyên, Hải Phòng, Nghệ An, Hưng Yên, Ninh Bình; lãnh đạo Hội đồng nhân dân các tỉnh: Hà Tĩnh, Ninh Bình, Hưng Yên, Lào Cai; các chuyên gia, nhà khoa học và đại biểu Quốc hội các khóa,… Về phía tỉnh Vĩnh Long có ông Thạch Phước Bình, Tỉnh ủy viên, Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long, Ủy viên Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội.

Tham gia thảo luận tại Hội nghị về dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi), ông Thạch Phước Bình, Tỉnh ủy viên, Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Long có một số ý kiến góp ý trực tiếp vào dự thảo Luật như sau:
Thứ nhất, về nguyên tắc hoạt động giám sát (Điều 3)
Đại biểu đánh giá cao nội dung các nguyên tắc hoạt động giám sát vì có tính kế thừa, phân biệt cụ thể giữa hoạt động thanh tra và các hoạt động khác. Đặc biệt, trong dự thảo Luật lần này đã bổ sung mới 02 nguyên tắc hoạt động giám sát (tại khoản 3 và khoản 4 Điều 3) quy định: “Giám sát có trọng tâm, trọng điểm, bám sát thực tiễn, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm gắn kết giữa hoạt động giám sát với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương”. Đại biểu cho rằng, đây là 02 nguyên tắc rất tiến bộ và phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, phản ánh tư duy giám sát từ bao trùm sang giám sát có lựa chọn, giám sát đến cùng, đảm bảo tính khả thi, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan giám sát trong việc công khai tiêu chí lựa chọn nội dung giám sát và báo cáo kết quả thực hiện tiêu chí lựa chọn nội dung giám sát, nâng cao tính minh bạch và giải trình với cử tri. Đồng thời, đại biểu đề nghị dự thảo Luật cần bổ sung thêm nội dung “Thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động giám sát” vào phần tổ chức thực hiện giám sát cho phù hợp hơn.
Thứ hai, về thẩm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân (Điều 5)
Đại biểu cơ bản thống nhất nội dung quy định về thẩm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và thẩm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã vì 02 nội dung này phù hợp và bám sát Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Theo đó, dự thảo Luật quy định Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tập trung giám sát cơ quan cấp tỉnh và khi xét thấy cần thiết, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh mới tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở cấp xã. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi và thực hiện thống nhất khi luật có hiệu lực, đại biểu đề xuất dự thảo Luật cần quy định rõ hơn tiêu chí xác định trường hợp như thế nào mới cần thiết mà Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thể giám sát cơ quan cấp xã hoặc bổ sung một khoản giao cho Chính phủ quy định chi tiết các tiêu chí cần thiết để Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tập trung giám sát ở cấp xã; đại biểu đề nghị bỏ quy định về thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân vì Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân chỉ là một hình thức tập hợp đại biểu Hội đồng nhân dân theo đơn vị bầu cử, không phải là một cơ quan độc lập, không có nguồn lực để thực hiện giám sát.
Ngoài ra, đại biểu còn băn khoăn quy định tại khoản 1 Điều 5 dự thảo Luật quy định về thẩm quyền giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh: “Hội đồng nhân dân tỉnh, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân, các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân và cơ quan khác ở cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân đặc khu nơi không tổ chức cấp chính quyền địa phương, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan thi hành án dân sự ở địa phương,... Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở cấp xã trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật”. Đại biểu nhận thấy, đây là quy định hoàn toàn phù hợp nhưng đề nghị chỉ giới hạn ở phương diện tuân thủ pháp luật và trách nhiệm giải trình trước nhân dân, tuyệt đối không can thiệp vào hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan tư pháp vì các cơ quan này hoạt động độc lập trong xét xử, kiểm sát thi hành án. Đồng thời, đại biểu cũng đề nghị bổ sung các cơ quan như: Cơ quan Thi hành án dân sự, Cục thuế, Bảo hiểm xã hội, Kho bạc Nhà nước, Quản lý thị trường vào đối tượng chịu sự giám sát, chất vấn, giải trình của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nhằm đảm bảo tính toàn diện cho hoạt động giám sát vì thực tế hiện nay các cơ quan này thuộc ngành dọc nhưng hoạt động tại địa phương.
Thứ ba, về hiệu quả giám sát (Điều 13)
Dự thảo Luật đưa ra 02 phương án xin ý kiến, theo đó phương án 1 giữ nguyên như quy định hiện hành, phương án 2 quy định cụ thể một số tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát. Theo đại biểu, đề nghị Ban soạn thảo chọn phương án 2 quy định cụ thể một số tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát như: Sự phù hợp của vấn đề, lĩnh vực giám sát và thời điểm tiến hành giám sát; tác động đến hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương; sự tiết kiệm, khoa học của hoạt động giám sát. Như vậy, phương án 2 sẽ giúp nâng cao tính minh bạch, khoa học và khả năng đánh giá khách quan, hiệu quả giám sát và cũng là cơ sở để cơ quan giám sát tự rà soát, tự nâng cao đánh giá hoạt động.
Đối với quy định hiệu lực, hiệu quả giám sát, đại biểu cho rằng dự thảo Luật quy định chủ thể chịu sự giám sát nghiêm túc thực hiện các kiến nghị giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội, song không rõ quy định này mang tính bắt buộc hay không. Nếu không bắt buộc thì cơ quan chịu sự giám sát phản hồi rất ít, vì thế nên thiết kế quy định này theo hướng bắt buộc thực hiện.
Thứ tư, về hoạt động giám sát giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân (các điều 80, 91, 98)
Đại biểu cơ bản đồng tình với các nội dung quy định trong dự thảo Luật về hoạt động giám sát giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu lực, minh bạch của quá trình giám sát, đại biểu đề nghị quy định cụ thể từng khâu từ tiếp nhận, thụ lý, chuyển đơn, đôn đốc giám sát… cụ thể theo hướng như sau: Đối với thẩm quyền của Thường trực Hội đồng nhân dân (Điều 80) đề nghị quy định không chỉ tiếp nhận và xử lý mà còn chủ động phân công các Tổ đại biểu tổ chức giám sát, xác minh; đối với các Ban của Hội đồng nhân dân (Điều 91) đề nghị giới hạn thẩm quyền của các Ban của Hội đồng nhân dân chỉ tổ chức Đoàn giám sát để giám sát giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân theo sự phân công của Thường trực Hội đồng nhân dân. Quy định này bảo đảm phù hợp với cơ cấu tổ chức các Ban của Hội đồng nhân dân và để tránh trùng lắp với hoạt động tiếp nhận và xử lý đơn của Thường trực Hội đồng nhân dân.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật quy định cụ thể trách nhiệm, thẩm quyền, cơ chế bảo đảm hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân trong giám sát giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh của công dân (Điều 98). Đại biểu cơ bản thống nhất các nội dung quy định tại Điều 98 dự thảo Luật. Tuy nhiên, để triển khai thực hiện các quy định này, đại biểu đề nghị bổ sung cơ chế phản hồi bắt buộc, tức là cơ quan, cá nhân có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo phải có văn bản phản hồi kết quả giải quyết cho cơ quan giám sát trong thời hạn nhất định (nhưng không quá 30 ngày) hoặc trong trường hợp vụ việc phức tạp thì có thể gia hạn thêm nhưng phải thông báo bằng văn bản. Đồng thời, bổ sung nguyên tắc công khai kết quả giải quyết đến công dân, trừ trường hợp mà pháp luật quy định bảo mật thì quy định rõ trách nhiệm phối hợp của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân trong tham mưu, tổng hợp, đôn đốc…
Thứ năm, về trách nhiệm giám sát văn bản quy phạm pháp luật
Đại biểu đề nghị chỉ nên giao Thường trực Hội đồng nhân dân giám sát văn bản quy phạm pháp luật không nên quy định nhiều chủ thể tại địa phương cùng thực hiện trách nhiệm này như Luật hiện hành nhằm xác định rõ trách nhiệm, tránh chồng chéo và nâng cao hiệu quả giám sát. Bên cạnh đó, đề nghị cần bổ sung quy định về quy trình tiếp nhận, phân công giám sát văn bản phải rõ ràng, báo cáo định kỳ Hội đồng nhân dân về số lượng kết quả giám sát văn bản, cơ chế huy động chuyên gia, nhà khoa học tham gia đánh giá văn bản.
Thứ sáu, về cơ chế giải trình định kỳ công khai
Hiện tại, dự thảo Luật chỉ đề cập đến hoạt động giải trình đối với từng vụ việc, nội dung giám sát cụ thể nhưng để đảm bảo tính liên tục, toàn diện và trách nhiệm giải trình công khai trước cử tri, đại biểu đề nghị bổ sung quy định về việc Hội đồng nhân dân tổ chức phiên giải trình định kỳ hàng năm, chủ yếu tập trung rà soát việc thực hiện toàn bộ các nghị quyết, kết luận giám sát đã ban hành trong năm nhằm đảm bảo công khai, minh bạch và đánh giá được mức độ chấp hành của cơ quan chịu sự giám sát.
Thứ bảy, về cơ chế giá, cơ chế tham vấn chuyên gia, tổ chức xã hội
Dự thảo Luật quy định Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân được quyền mời chuyên gia nhưng chưa quy đinh cụ thể về thủ tục huy động chuyên gia, tiêu chuẩn lựa chọn chuyên gia, tổ chức tư vấn, kinh phí hỗ trợ, quyền và trách nhiệm của chuyên gia. Đại biểu lo lắng, nếu không quy định cụ thể thì hoạt động tham vấn dễ bị hình thức hoặc khó triển khai trong thực tế. Do đó, đại biểu đề nghị bổ sung thêm vào dự thảo Luật một điều quy định riêng về cơ chế mời chuyên gia, tổ chức xã hội tham gia giám sát, quy định Hội đồng nhân dân lập danh sách chuyên gia, tổ chức tư vấn độc lập theo lĩnh vực để huy động khi cần thiết, xác định trách nhiệm cung cấp tài chính, hỗ trợ thông tin và bảo mật kết quả tham vấn. Bên cạnh đó, đối với hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu đề nghị dự thảo Luật nên có quy định cơ chế mời chuyên gia tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội tham gia cùng Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tại địa phương khi tổ chức giám sát các chuyên đề theo yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội…
Thứ tám, về chế độ bảo vệ người tố cáo, người cung cấp thông tin
Đại biểu đề nghị cơ quan giám sát có trách nhiệm bảo vệ an toàn, bảo mật thông tin của người cung cấp tư liệu, bằng chứng phục vụ buổi giám sát vì thực tế có trường hợp công dân, tổ chức không dám cung cấp thông tin cho cơ quan giám sát vì lo sợ bị trả thù, trù dập; quy định về trách nhiệm Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân ban hành quy trình bảo mật riêng, nghiêm cấm lộ lọt thông tin. Đồng thời, cần có cơ chế giám sát liên thông giữa Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp vì dự thảo Luật mới chỉ quy định nguyên tắc phối hợp mà chưa cụ thể hóa cơ chế giám sát liên thông, chia sẻ dữ liệu, kết quả giám sát giữa Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở địa phương. Vì vậy, đại biểu đề nghị bổ sung các quy định: (1) về trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn, tổng hợp báo cáo kết quả giám sát định kỳ của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; (2) Thiết lập cơ chế, cơ sở dữ liệu chia sẻ trực tuyến giữa Quốc hội và Hội đồng nhân dân các tỉnh để tra cứu kết quả giám sát; (3) Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm gửi báo cáo kết quả giám sát chuyên đề về Quốc hội để theo dõi, đôn đốc; (4) Trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu giám sát; (5)Trách nhiệm xây dựng quản lý cơ sở dữ liệu giám sát điện tử, hệ thống lưu trữ hồ sơ số hóa, gồm: Trách nhiệm của Thường trực Hội đồng nhân dân phối hợp với Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân trong xây dựng hệ thống thông tin quản lý kết quả giám sát điện tử; nghĩa vụ cơ quan chịu sự giám sát cung cấp báo cáo tài liệu qua hệ thống điện tử bảo đảm; bảo đảm lưu trữ hồ sơ giám sát tối thiểu 10 năm và công khai toàn bộ kết quả, trừ trường hợp bí mật Nhà nước; (7) Cơ chế đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ giám sát cho đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân vì nhiều đại biểu hoạt động kiêm nhiệm chưa được trang bị đầy đủ kỹ năng giám sát, tiếp xúc cử tri, xử lý thông tin. Do đó, đại biểu đề nghị hàng năm Thường trực Hội đồng nhân dân phối hợp các Ban, các đại biểu ĐBQH, Hội đồng nhân dân, các Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng giám sát, tiếp xúc cử tri cho đại biểu và bố trí kinh phí riêng phục vụ công tác này; (8) Bổ sung trách nhiệm tổng hợp, báo cáo toàn bộ kết quả giám sát của nhiệm kỳ và công khai báo cáo này trên Cổng Thông tin điện tử và gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội để theo dõi, giám sát vì dự thảo Luật chỉ quy định báo cáo kết quả từng kỳ họp, từng vụ việc giám sát.

Phát biểu kết luận Hội nghị, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương nhấn mạnh: Ban đầu, dự thảo Luật chỉ sửa đổi một số điều nhưng sau đó thay đổi sửa đổi toàn diện trên tinh thần đổi mới tư duy xây dựng pháp luật. Thực tiễn khẳng định, hoạt động giám sát có vị trí ngày càng quan trọng, bên cạnh đó, một số nghị quyết của Trung ương và kết luận của Bộ Chính trị cũng yêu cầu phải làm rõ phạm vi, đối tượng giám sát tối cao của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, nâng cao chất lượng hoạt động giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật và giám sát khiếu nại, tố cáo,... Vì thế, cần thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, quan điểm của Đảng, tiếp tục hoàn thiện quy định để Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi) phát huy hiệu quả trong thực tiễn.
Hồng Yến